9846_Giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN PHÁT MINH

GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN PHÁT MINH

GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS PHẠM DUY NGHĨA

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ……………………………………………………………………………………………

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT …………………………………………………………………………

TÓM TẮT LUẬN VĂN …………………………………………………………………………………..

TỪ KHÓA ……………………………………………………………………………………………………..

LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………………………………
1
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………………………….
1
2. Giả thuyết nghiên cứu
…………………………………………………………………………………
3
3. Tình hình nghiên cứu ………………………………………………………………………………….
4
4. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ………………………………………………….
5
5. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
…………………………………………………………
7
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài …………………………………………….
7
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ HỢP ĐỒNG
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ………………………………………………………………………………………..
8
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ …………………..
8
1.1.1 Khái quát về thƣơng mại điện tử ………………………………………………………
8
1.1.2 Thƣơng mại điện tử trong bối cảnh Việt Nam hiện nay ……………………..
14
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
16
1.2.1 Khái niệm và cơ sở pháp lý của hợp đồng thƣơng mại điện tử ……………
16
1.2.2 Nguyên tắc giao kết hợp đồng điện tử ……………………………………………..
18
1.2.3 Nguồn luật liên quan đến hợp đồng thƣơng mại điện tử …………………….
20
CHƢƠNG 2: GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
……………………………………………………………………….
26
2.1 GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ………………………………
26
2.1.1 Đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử …………………………………
26
2.1.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử
………………….
29

2.1.3 Thay đổi, rút lại, huỷ bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại
điện tử ……………………………………………………………………………………………………………
33
2.1.4 Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thƣơng mại điện tử
……………………
39
2.1.5 Năng lực chủ thể tham gia hợp đồng thƣơng mại điện tử……………………
41
2.1.6 Đối tƣợng của hợp đồng thƣơng mại điện tử
…………………………………….
47
2.2 THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ……………………………
48
2.2.1 Minh bạch thông tin và bảo đảm thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử
……………………………………………………………………………………………………………………..
49
2.2.2 Hợp đồng theo mẫu, điều khoản bất cân xứng và vấn đề bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng ……………………………………………………………………………………………….
55
2.2.3 Bảo mật thông tin khách hàng và trách nhiệm của bên nắm giữ thông tin
……………………………………………………………………………………………………………………..
61
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN GIAO KẾT
VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ …………………………………………
68
3.1 GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ………………………………
68
3.1.1 Chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử ………………………………………………
68
3.1.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử …………………………………
69
3.1.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử
………………….
69
3.1.4 Huỷ bỏ đề nghị giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử ………………………
72
3.2 THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ……………………………
73
3.2.1 Minh bạch thông tin trong hợp đồng thƣơng mại điện tử
……………………
73
3.2.2 Hợp đồng mẫu, điều khoản bất cân xứng và vấn đề bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng ……………………………………………………………………………………………….
74
3.2.3 Bảo mật thông tin khách hàng và trách nhiệm của bên nắm giữ thông tin
……………………………………………………………………………………………………………………..
75
3.2.4 Mức chế tài đối với hành vi vi phạm, đội ngũ thực thi pháp luật và vai trò
của cơ quan tƣ pháp …………………………………………………………………………………………
76

KẾT LUẬN
…………………………………………………………………………………………………
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………………………
82
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT………………………………………
85

LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Phát Minh – là học viên lớp Cao học Khóa 26 chuyên ngành
Luật kinh tế, Khoa Luật, Trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của
Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại
điện tử theo pháp luật Việt Nam” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung đƣợc trình bày trong Luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dƣới sự hƣớng dẫn của ngƣời hƣớng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều đƣợc trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin đƣợc sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.

Học viên thực hiện

NGUYỄN PHÁT MINH

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự 2015
LGDĐT 2005
Luật Giao dịch điện tử 2005
LBVQLNTD 2010
Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng 2010
LTTTM 2010
Luật Trọng tài thƣơng mại 2010
TMĐT
Thƣơng mại điện tử
GDĐT
Giao dịch điện tử
HĐĐT
Hợp đồng điện tử
TMTT
Thƣơng mại trực tuyến
UNCITRAL
Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thƣơng mại quốc tế
(United Nations Commission on International Trade Law)
UNIDROIT
Viện Quốc tế về nhất thể hoá pháp luật tƣ
(United Nations Commission on International Trade Law)
WTO
Tổ chức kinh tế thế giới (World Trade Organization)
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(Organization for Economic Co-operation and Development)
CISG 1980
Công ƣớc Viên về mua bán hàng hóa quốc tế 1980
(The United Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods)
GDPR
Quy chế chung về Bảo vệ dữ liệu cá nhân
(General Data Protection Regulation)
Website
Kênh bán hàng thƣơng mại trực tuyến

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực đƣợc thực hiện khá phổ biến trên thị trƣờng hiện
nay. Luật Giao dịch điện tử 2005 ra đời nhằm điều chỉnh những vấn đề có liên quan đến
hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử. Tuy nhiên, trải qua thời gian
thì cách thức giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử ngày trở nên đa dạng
khiến việc tìm hiểu những quy định trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Việc
tìm hiểu những quy định pháp luật Việt Nam có liên quan đến giao kết và thực hiện hợp
đồng thƣơng mại điện tử góp phần đóng góp vào việc nghiên cứu, cũng nhƣ thúc đẩy việc
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật thực định Việt Nam hiện hành có liên quan.

TỪ KHÓA
Hợp đồng điện tử, Thƣơng mại điện tử, Thƣơng mại trực tuyến,
Đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử.

ABSTRACT
E-commerce is an area that is widespread in the market today. The Electronic
Transaction Law was realeased on 2005 to regulate issues regarding to the signing and
implementation of e-commerce contracts. However, through out the years, the way to enter
into and implement e-commerce contracts has become more and more diversified, making
it therefore more vital to understand the regulations. The study of Vietnamese legal
provisions relating to contracting and implementing the contracts contributes to the
research activity, as well as to promote the completion of the current legal system and
existing regulations.

KEY WORD
E-contract, E-commerce, Electronic contract,
Electronic offer; Electronic acceptance.
1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sau gần hơn ba mƣơi năm thực hiện việc chuyển đổi mô hình kinh
tế, đất nƣớc đã gặt hái đƣợc những thành tựu kinh tế nhất định. Nếu nhƣ trƣớc đây,
mệnh lệnh hành chính nền kinh tế không những không tạo ra đƣợc sự công bằng cho
các đối tƣợng trong xã hội nhƣ mục tiêu ban đầu Nhà nƣớc hƣớng đến mà còn trực
tiếp tạo ra nền kinh tế khủng hoảng “thiếu”, đời sống của ngƣời dân gặp nhiều khó
khăn, nhất là trong quá trình phân phối sản phẩm thông qua kế hoạch hoá tập trung.
Giờ đây, việc chuyển đổi mô hình kinh tế sang kinh tế thị trƣờng đã phát huy đƣợc
vai trò vốn có của nó, mở ra nhiều cơ hội cho ngƣời kinh doanh đƣợc thực hiện
những quyền năng cơ bản của chính mình, trong đó việc tự do hoá sở hữu tƣ nhân và
tự do hợp đồng là những hệ quả tích cực mà kinh tế thị trƣờng mang lại.
Nhận thấy, pháp luật hợp đồng đóng vai trò quan trọng nhƣ là xƣơng sống
trong chuỗi các hoạt động kinh tế mà các chủ thể tham gia trên thị trƣờng. Nếu nhƣ
hợp đồng đƣợc hình thành từ khá sớm trong hoạt động đời sống của con nguời thông
qua các khế ƣớc hay thoả thuận mang tính chất đối ứng1 thì giờ đây, ngoài đặc trƣng
là ràng buộc quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, hợp đồng còn đƣợc nhìn
nhận nhƣ một công cụ để các bên quản trị rủi ro, quản trị những nhân tố tác động
trực tiếp vào hợp đồng cũng nhƣ kiểm soát tài chính thông qua việc xem chi phí giao
kết hợp đồng nhƣ một chi phí giao dịch2. Do vậy, hợp đồng ngày càng đƣợc các bên

1 O’Sullivan & Hilliard’s, 2016. The law of Contract. 5th ed. Oxford: Oxford University
Press, Ch.1.
2 Oliver E. Williamson, 1985. The Economic institutions of Capitalism. The Free Press. Dịch
từ tiếng Anh. Ngƣời dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh, Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh – Chƣơng trình
giảng dạy kinh tế Fulbright Niên khoá 2005 – 2006. “Kinh tế học về chi phí giao dịch khẳng định
rằng việc tập trung tất cả hành động mặc cả phù hợp vào giai đoạn trƣớc khi ký kết hợp đồng (ex
ante) là điều không thể thực hiện. Thay vào đó, quá trình mặc cả dàn trải từ đầu đến cuối – vì lý do
đó các thể chế (thể chế) về cách thức trật tự tƣ và việc nghiên cứu toàn bộ quá trình hợp đồng bắt
đầu có ý nghĩa kinh tế có tính quyết định”.
2

xem trọng nhƣ một trợ thủ nhằm thiết kế những giao dịch xuất hiện trên thị trƣờng
có khả năng sinh lợi cho bên tham gia, tăng khả năng lƣu thông hàng hoá, dịch vụ
đồng thời cũng giảm thiểu các chi phí phát sinh liên quan trong quá trình giao kết và
thực hiện.
Cùng tồn tại song song với sự phát triển của pháp luật hợp đồng, việc phát
triển khoa học công nghệ không những tác động đến các mặt của đời sống mà pháp
luật hợp đồng cũng chịu ảnh hƣởng sâu sắc của sự phát triển mang tính chất tự nhiên
đó, minh chứng rõ nét nhất là hợp đồng điện tử. Có thể thấy, khái niệm hợp đồng
điện tử tuy xa lạ với ngƣời tiêu dùng nhƣng bản chất cũng nhƣ cách thức vận hành
và những tiện ích mà hợp đồng điện tử mang lại đang ngày càng hiện hữu rõ nét
trong cuộc sống của mỗi ngƣời dân3. Chẳng hạn, hàng hóa đƣợc phân phối hoặc
mua bán thông qua các kênh bán hàng thƣơng mại trực tuyến website mà các bên
tham gia không phải giao dịch trực tiếp; Việc cung ứng dịch vụ di chuyển ngày nay
thông qua phần mềm ứng dụng trên các thiết bị công nghệ mà không phải bằng
những cuộc gọi liên lạc qua tổng đài,… hoặc những dạng thức khác có liên quan
đang ngày càng đƣợc ứng dụng và phát triển nhiều trong cuộc sống.
Nếu việc giao kết hợp đồng theo cách truyền thống đƣợc thực hiện chủ yếu
bằng văn bản (paper contract), hoặc thông qua hành vi tạo ra những thuận tiện nhất
định cho các bên tham gia giao dịch, thì giờ đây hợp đồng điện tử lại mang một âm
hƣởng hoàn toàn khác biệt do những đặc tính tiện lợi hơn, chẳng hạn đặc tính về
không gian và thời gian trong giao kết và thực hiện hợp đồng, khiến pháp luật với

3 Trang thông tin điện tử Công ty phân tích thị trƣờng Euromonitor (2017). Consumer
Electronics in Vietnam, truy cập tại địa chỉ: http://www.euromonitor.com/consumer-electronics-in-
vietnam/report. “Thanks to Vietnam‟s huge population and improving living standards, it has
become a promising market in Asia and it has received much attention from many international
companies. Moreover, increasingly modern lifestyles and a better economic performance has also
helped to boost the demand for consumer electronics in Vietnam; According to the Ministry of
Posts & Telemetric, internet usage reached over 50% of the total population in Vietnam in 2017,
which was nearly 20% higher than the previous year”.

3

vai trò và vị thế chủ đạo tạo ra hành lang pháp lý, phải làm sao có những sự điều
chỉnh phù hợp và kịp thời nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quan hệ kinh tế trong không
gian thƣơng mại điện tử đƣợc diễn ra một cách an toàn, giảm thiểu rủi ro và tiết
kiệm chi phí giao dịch đồng thời tăng khả năng lƣu thông hàng hoá, dịch vụ.
Việc chọn đề tài “Giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử theo
pháp luật Việt Nam” nhằm phân tích những khía cạnh pháp lý có liên quan đến việc
giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử, những điểm khác biệt giữa việc
giao kết và thực hiện một hợp đồng điện tử so với việc giao kết và thực hiện một
hợp đồng theo cách thức truyền thống; những cách thức giao kết và thực hiện hợp
đồng điện tử hiện thời mà pháp luật vẫn chƣa có sự điều chỉnh; hoặc những khó
khăn trong việc bảo vệ bên yếu thế, bảo mật thông tin, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng trong hợp đồng điện tử cũng đặt ra nhiều thách thức đối với quá trình lập pháp
và hành pháp của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài những khó khăn, vƣớng
mắc và thực tế liên quan đến đề tài nghiên cứu, việc so sánh và tham khảo một số
quy định có liên quan tại một số khu vực, liên minh kinh tế, quốc gia phát triển
thƣơng mại điện tử góp phần hoàn thiện các quy phạm hiện hành cũng nhƣ có những
sự điều chỉnh kịp thời nhằm phát triển nền kinh tế thị trƣờng nói chung cũng nhƣ
những giao dịch của ngƣời kinh doanh nói riêng trong giai đoạn ứng dụng công
nghệ số hiện nay ngày một phát triển.
2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
2.1 Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử có những điểm
khác biệt gì đáng kể so với giao kết và thực hiện một hợp đồng truyền thống?
2. Pháp luật Việt Nam đã xử lý các khác biệt này nhƣ thế nào? Có điểm gì
chƣa đƣợc xử lý, kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành có liên
quan?
2.2 Giả thuyết nghiên cứu
4

1. Pháp luật hiện hành chƣa tạo ra đƣợc những quy phạm pháp luật đầy đủ, rõ
ràng nhằm điều chỉnh cũng nhƣ tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể trong
quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử;
2. Hợp đồng thƣơng mại điện tử tạo đƣợc những sự thuận lợi trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng, tuy nhiên các bên tham gia cũng đối mặt với những
rủi ro mà mặt trái của thƣơng mại điện tử mang lại;
3. Bên gia nhập hợp đồng thƣơng mại điện tử (phần lớn với tƣ cách ngƣời tiêu
dùng) thƣờng gánh chịu những rủi ro trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng.
3. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến chủ đề pháp luật hợp đồng thƣơng mại điện tử đã có không ít
tác giả, những ngƣời nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật thể hiện những quan điểm,
những góc nhìn pháp lý dƣới dạng bài nghiên cứu chuyên khảo, tạp chí khoa học,
báo cáo hội thảo khoa học, luận văn,… Theo đó các bài nghiên cứu đề cập một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp những vấn đề liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp
đồng thƣơng mại điện tử, những vƣớng mắc, khó khăn cũng nhƣ những vấn đề mà
pháp luật hiện hành còn chƣa quy định. Qua đó, một số bài viết tiêu biểu của một số
tác giả nghiên cứu, nhƣ:
– Nguyễn Thị Mơ, 2006. Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử. Hà
Nội: NXB Lao động xã hội;
– Trần Văn Biên, 2007. Những vấn đế pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử.
Tạp chí Tòa án nhân dân 2007 (số 1), trang 26 – 35;
– Trần Văn Biên, 2010. Tự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua
mạng internet. Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 10 (270), tr.55 – 66;
– Trần Văn Biên, 2012. Đặc điểm của hợp đồng điện tử. Tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật số 5(289), tr.52-57;
– Đặng An Thanh, 2014. Những bất cập trong quy định của pháp luật về quy
trình, thủ tục giao kết hợp đồng điện tử và một số giải pháp đề xuất. Tạp chí Tòa án
nhân dân 2014 (Số 7), trang 26 – 30;
5

– Đặng An Thanh, 2014. Pháp luật về ký kết, thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt
Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
– Tào Thị Quyên, Lƣơng Tuấn Nghĩa, 2016. Hoàn thiện pháp luật về thương
mại điện tử ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: NXB Tƣ pháp.
Thông qua những bài nghiên cứu đó, những vấn đề pháp lý liên quan đến giao
kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện một cách riêng rẽ, còn
mang tính chất khái quát chung là chủ yếu, đa phần đƣợc thể hiện dƣới dạng những
bài đăng tạp chí nghiên cứu pháp lý nên việc chi tiết hoá những quy định pháp luật,
những thực tiễn có liên quan còn hạn chế. Do vậy, việc chọn đề tài “Giao kết và
thực hiện hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam” nhƣ một cách để
ngƣời viết có thể tổng hợp và nghiên cứu sâu hơn một số khía cạnh pháp lý có liên
quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử, nhằm đƣa ra những ý kiến và lập luận độc
lập đối với các vấn đề liên quan mà các bài viết, bài nghiên cứu trên chƣa thực hiện
đƣợc trong giai đoạn hiện nay, góp phần củng cố và hoàn thiện những quy phạm
pháp luật thực định cũng nhƣ góp phần vào việc lý giải những các thức kinh doanh
trong thực tiễn cuộc sống của ngƣời kinh doanh nói chung và các chủ thể quan hệ
pháp luật hợp đồng thƣơng mại điện tử nói riêng.
4. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua bài nghiên cứu này, tác giả mong muốn có thể giúp cho ngƣời đọc
có một góc nhìn tổng quan những quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc
giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở nƣớc ta hiện nay. Không dừng lại ở đó,
việc chỉ ra những khó khăn, vƣớng mắc cũng góp phần giúp cho ngƣời đọc vận dụng
một cách tốt hơn những quy định thực định để bảo vệ chính bản thân mình trong các
quan hệ pháp luật nói chung và các quan hệ thƣơng mại điện tử giữa các chủ thể nói
riêng. Ngoài ra, việc nghiên cứu còn chỉ ra đƣợc những bất cập, bằng cách loại bỏ
những quy định không hợp lý, những rào cản thƣơng mại hoặc bổ sung những quy
định còn thiếu sót – chƣa bảo vệ đƣợc các chủ thể tham gia, mà thông qua đó các
nhà hành pháp cần xem xét để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm tạo hành lang pháp lý
6

an toàn, góp phần vào sự phát triển các giao dịch trên thị trƣờng nói riêng cũng nhƣ
sự phát triển của xã hội nói chung.
4.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào:
1. Hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam có liên quan đến việc giao kết và
thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử, cũng nhƣ cách thức áp dụng và vận hành
những quy định đó vào đời sống của ngƣời kinh doanh trên thị trƣờng hiện nay;
2. Những tình huống thực tế có liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp
đồng thƣơng mại điện tử;
3. Những phán quyết có hiệu lực của một số cơ quan tài phán nhƣ nguồn bổ
trợ cho pháp luật thực định hiện hành, vốn chƣa hoàn thiện trong giai đoạn thƣơng
mại điện tử đang ngày càng phát triển một cách nhanh chóng.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
– Về không gian: Nội dung của luận văn tập trung tìm hiểu những vấn đề có
liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử theo những quy
định pháp luật hiện hành. Bao gồm những cách thức tiến hành giao dịch đã đƣợc
quy định bởi những quy định pháp luật có liên quan, những cách thức giao dịch
đƣợc tiến hành trên thực tế những chƣa có sự dự liệu của pháp luật. Bên cạnh đó,
luận văn còn phân tích những khía cạnh có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng
thƣơng mại điện tử, bao gồm vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, hợp đồng
mẫu, điều khoản bất cân xứng, vấn đề minh bạch thông tin trong quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng cũng nhƣ quyền riêng tƣ do các bên tiếp cận đƣợc và việc
bảo vệ quyền riêng tƣ theo những quy định pháp luật thực định.
– Về thời gian: Luận văn phân tích những quy phạm pháp luật thực định hiện
hành có hiệu lực và đang đƣợc ngƣời kinh doanh nói chung cũng nhƣ các bên tham
gia giao dịch thƣơng mại điện tử nói riêng áp dụng vào trong cuộc sống. Bên cạnh
đó, ngƣời viết còn tham khảo những quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực để chỉ ra
những điểm tiến bộ, những điều mà pháp luật hiện hành chƣa giải quyết đƣợc.
Không dừng lại ở đó, việc tham khảo những quy phạm của một số quốc gia, khu vực
7

khác đang có hiệu lực cũng góp phần hoàn thiện pháp luật trong nƣớc thông qua
việc đề xuất những sửa đổi, bổ sung quy phạm pháp luật hiện hành.
5. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
– Phương pháp phân tích luật: Phân tích các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan đến đề tài luận văn. Phƣơng pháp này là phƣơng pháp đƣợc sử dụng chủ
yếu và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu của đề tài luận văn.
– Phương pháp so sánh, đối chiếu: Cùng tồn tại song song với phƣơng pháp
phân tích luật viết, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu là công cụ hỗ trợ nhằm phân tích
định tính nhằm chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong quá trình phân tích luật
viết và những vấn đề pháp lý có liên quan đến đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề pháp lý có liên quan đến giao kết và thực
hiện hợp đồng thƣơng mại điện tử, luận văn góp phần làm phong phú thêm những
góc nhìn, những quan điểm pháp lý cũng nhƣ lý giải đƣợc cách thức vận dụng pháp
luật hiện hành trên thực tế. Thông qua đó, luận văn đƣợc xem nhƣ một nguồn tài
liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học pháp lý, và là nguồn tài liệu chứa đựng
những đề xuất, những quan điểm, góc nhìn mới về giao kết và thực hiện hợp đồng
trong giai đoạn công nghệ hiện đại ngày nay. Do vậy, luận văn còn đƣợc sử dụng
nhằm đƣa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật thành văn cũng nhƣ sử dụng
những quan điểm, góc nhìn mới nhƣ một phƣơng thức để áp dụng vào trong cuộc
sống với mong muốn thúc đẩy những giao dịch trên thị trƣờng đƣợc diễn ra một
cách nhanh chóng, tăng giá trị cũng nhƣ hiệu quả của giao dịch nhƣng vẫn đảm bảo
đƣợc lợi ích các bên, thông qua hợp đồng – một cách thức phân bố, chia sẻ rủi ro và
lợi nhuận của các bên tham gia.

8

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.1 Khái quát về thƣơng mại điện tử
Kinh tế thế giới đã có những sự chuyển biến mang tính chất lịch sử, và nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng không nằm ngoài những sự chuyển
biến mang tính thời cuộc nhƣ vậy. Từ tiền ảo (bitcoin, blockchain), dịch vụ vận
chuyển bằng công nghệ (uber, grab); cho đến trí tuệ nhân tạo (AI), hoặc việc thanh
toán không sử dụng tiền mặt (ví điện tử, e-banking),… là những cách thức kinh
doanh, giao dịch mới đƣợc xuất hiện trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Chính những cách thức giao dịch mới đã mở ra nhiều cơ
hội cũng nhƣ thách thức cho những lề lối kinh doanh truyền thống, vốn đƣợc áp
dụng một cách xƣa cũ trên thị trƣờng, buộc phải dần thay đổi và thích nghi trƣớc
những sự thay đổi của công nghệ ngày càng mạnh mẽ. Nếu nhƣ trƣớc đây, kinh tế
truyền thống con ngƣời thực hiện một cách sơ khai thì ngày nay kinh tế nói chung
cũng nhƣ thƣơng mại và dịch vụ nói riêng đã vƣợt qua khỏi những giới hạn sơ khai
của nó, trong đó ranh giới lãnh thổ quốc gia ngày càng mờ nhạt, thế giới trở nên
“phẳng” hơn bao giờ hết, cũng nhƣ những phƣơng thức giao thƣơng đã có những sự
chuyển biến mang màu sắc hoàn toàn khác, tiết kiệm đƣợc thời gian, chi phí giao
dịch cũng nhƣ gia tăng hiệu suất lƣu thông của hàng hoá, dịch vụ trên thị trƣờng.
Không thể phủ nhận, những phƣơng thức giao dịch thƣơng mại xuất hiện từ
thuở sơ khai đến bây giờ vẫn phát huy đƣợc những vai trò vốn có của nó. Chẳng
hạn, giao kết và thực hiện hợp đồng dựa trên văn bản thuận tiện cho việc đàm phán,
thƣơng lƣợng để đi đến ý chí chung của các bên tham gia; Việc giao nhận hàng hoá
trực tiếp giữa ngƣời mua, kẻ bán đã tạo nên sự thuận tiện nhất định cho việc kiểm
tra, chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng; hay là việc thanh toán bằng tiền mặt vốn
gần gũi, đƣợc những ngƣời kinh doanh áp dụng hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên, nhƣ
vòng xoáy của quy luật phát triển, việc phát triển khoa học công nghệ nói chung
9

cũng nhƣ sự phát triển hệ thống mạng internet toàn cầu đã tác động không nhỏ đến
những cách thức giao dịch truyền thống đó. Và thuật ngữ “thương mại điện tử” xuất
hiện nhƣ một quy luật tất yếu của kinh tế thị trƣờng bởi những đặc trƣng riêng có và
những tiện ích mà nó mang lại.
Theo cách định nghĩa của Black‟s Law Dictionary thì: “Thương mại điện tử là
việc kinh doanh không sử dụng hình thức trao đổi dữ liệu giấy mà được thực hiện
thông qua việc sử dụng phương tiện điện tử và/hoặc phương tiện trực tuyến. Bao
gồm các hoạt động như mua sắm, đặt hàng, xử lý giao dịch, thanh toán, xác thực,
kiểm soát hàng tồn kho, thực hiện đơn đặt hàng và hỗ trợ khách hàng. Sự tham gia
của các bên vào thương mại điện tử ngày nay dường như mờ nhạt. Phương tiện thực
hiện thương mại điện tử bao gồm máy tính, điện thoại, máy fax, thiết bị đọc mã
vạch, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động hoặc các thiết bị điện tử khác, có hoặc
không có việc sử dụng mạng internet.”4 Còn theo cách định nghĩa của WTO tƣơng
tự với OECD thì: “Thương mại điện tử là việc mua bán hàng hoá hoặc cung ứng
dịch vụ được thực hiện thông qua mạng máy tính bởi cách thức được thiết kế riêng
nhằm mục đích nhận và đặt hàng. Thậm chí hàng hoá, dịch vụ được thực hiện thông
qua phương tiện điện tử, tuy nhiên việc thanh toán hoặc giao hàng không được thực
hiện bởi phương thực trực tuyến. Một giao dịch thương mại điện tử có thể được thực
hiện bởi doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, chính phủ hoặc các tổ chức công, tổ
chức tư khác. Theo đó, giao dịch điện tử được thực hiện thông qua web, extranet
hoặc phương tiện truyền dữ liệu điện tử. Việc thực hiện giao dịch được xác định
theo phương thức đặt lệnh. Không bao gồm việc đặt hàng được thực hiện bằng các

4 Nguồn https://thelawdictionary.org/electronic-commerce-e-commerce. “Business conducted
without the exchange of paper based documents through the use of electronic and/or online devices.
It includes activities such as procurement, order entry, transaction processing, payment,
authentication and nonrepudiation, inventory control, order fulfillment, and customer support. The
general public participates in ecommerce, almost unknowingly these days. Ecommerce devices
include computers, telephones, fax machines, barcode readers, credit cards, automated teller
machines (ATM) or other electronic appliances, whether or not using the internet”.
10

cuộc gọi điện thoại, fax hoặc qua email bằng hình thức thủ công”5,6. Còn theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì “Giao dịch điện tử là giao dịch được
thực hiện bằng phương tiện điện tử. Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành
một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện
tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”7.
Từ những cách giải thích của những tổ chức hợp tác cùng với quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về thƣơng mại điện tử, có thể thấy thƣơng mại điện tử bao gồm
những đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất về chủ thể tham gia thương mại điện tử. Những chủ thể tham gia
thƣơng mại điện tử không có sự khác biệt đáng kể so với chủ thể tham gia thƣơng
mại trên thị trƣờng truyền thống. Bởi chính cách định nghĩa cũng nhƣ dẫn giải về
khái niệm thƣơng mại điện tử đã nói lên đƣợc sự khác biệt, theo đó sự khác biệt tập
trung chủ yếu ở cách thức mà các chủ thể tiến hành giao dịch. Điều 2.1 Nghị định
52/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thƣơng mại điện tử (Nghị định 52/2013/NĐ-CP)
quy định chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử bao gồm: “Thương nhân, tổ chức, cá
nhân Việt Nam; Cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; Thương nhân, tổ chức
nước ngoài có sự hiện diện tại Việt Nam”. Bên cạnh đó, một cách phân loại không
chính thức nhƣng đƣợc đề cập khá nhiều trong những bài viết, công trình nghiên cứu
có liên quan đến thƣơng mại điện tử thì chủ thể tham gia bao gồm những mối quan
hệ thông qua quá trình liên kết, phân phối nhƣ sau: (i) Mối quan hệ thƣơng mại điện
tử giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp (Business to business – B2B); (ii) Mối quan
hệ thƣơng mại điện tử giữa ngƣời tiêu dùng và ngƣời tiêu dùng (Customer to
customer – C2C); (iii) Mối quan hệ thƣơng mại điện tử giữa doanh nghiệp và ngƣời
tiêu dùng (Business to customer – B2C); (iv) Mối quan hệ thƣơng mại điện tử giữa

5 World Trade Organization, 2013. E-commerce in developing countries – Opportunities and
challenges for small and medium-sized enterprises.
6 Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD), 2011. OECD Guide to
Measuring the Information Society.
7 Điều 4.6 Luật Giao dịch điện tử 2005 và Điều 3.1 Nghị định 52/2013/NĐ-CP.
11

doanh nghiệp và chính phủ (Business to goverment – B2G)8. Nhìn chung, chủ thể
tham gia thƣơng mại điện tử dƣới góc nhìn kinh tế có phần bao quát và rộng hơn so
với những chủ thể luật định, chẳng hạn Chính phủ là một chủ thể đƣợc đề cập nhiều
dƣới góc độ tham gia và chuỗi hoạt động thƣơng mại điện tử chứ không dừng lại ở
tƣ cách cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc nhƣng pháp luật hiện hành vẫn chƣa
có sự quy định chính thức đối với loại chủ thể này. Theo đó, chính phủ không chỉ
tham gia thƣơng mại điện tử với tƣ cách là một bên trong mối quan hệ mua sắm
hàng hoá công, mà ngày nay chính phủ còn tham gia thƣơng mại điện tử thông qua
sự liên kết với những doanh nghiệp nhằm cung ứng những dịch vụ công trực tuyến,
bao gồm các thủ tục cấp phép, thủ tục đăng ký và các thủ tục liên quan đến mối
quan hệ hành chính giữa Nhà nƣớc và tƣ nhân. Do vậy, việc bổ sung loại chủ thể
này vào những quy định pháp luật có liên quan hiện hành tạo nên sự bình đẳng giữa
các chủ thể tham gia, đồng thời không loại trừ tƣ cách khi chủ thể này tham gia vào
các giao dịch thƣơng mại điện tử.
Thứ hai về hình thức và phương thức thực hiện của thương mại điện tử. Nhƣ
đã đề cập, nếu nhƣ thƣơng mại truyền thống đƣợc thực hiện một cách thủ công
thông qua việc đàm phán, gặp gỡ trực tiếp và đôi khi là thông qua những mối quan
hệ tâm giao nhằm đạt mục đích giao kết hợp đồng, thì ở thƣơng mại điện tử, sự công
nghệ hoá của các thiết bị điện tử và mạng internet đã xoá bỏ những yếu tố quan hệ,
tình cảm trong việc giao kết và đƣa ra những quyết định mang tính ràng buộc. Theo
đó, các bên trƣớc khi tham gia vào hợp đồng thƣơng mại điện tử chỉ có thể biết nhau
thông qua các thông tin mà đối phƣơng cung cấp, hoặc uy tín và thƣơng hiệu của
bên cung ứng hàng hoá, dịch vụ đƣợc gầy dựng trên thị trƣờng thông qua các chính
sách marketing, quảng cáo, truyền thông. Do vậy, phƣơng tiện điện tử và dữ liệu
điện tử là yếu tố quan trọng, quyết định giao dịch đó có đƣợc xem là giao dịch điện
tử hay không.

8 Cục Thƣơng mại điện tử và Kinh tế số, 2017. Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2017.
12

Trên thực tế ngày nay cũng nhƣ trong những cách dẫn giải về phƣơng tiện điện
tử, thì phƣơng tiện điện tử đƣợc thể hiện thông 02 khía cạnh: (i) Phƣơng tiện điện tử
là phƣơng tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính,
truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tƣơng tự9.
Thông qua quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, đã có những sự khác biệt
so với cách dẫn giải khái niệm giao dịch đƣợc thực hiện thông qua phƣơng tiện điện
tử của WTO và OECD nhƣ vừa phân tích phía trên. Bằng chứng, WTO và OECD đã
loại trừ hình thức “đặt hàng được thực hiện bằng các cuộc gọi điện thoại, fax hoặc
qua email bằng hình thức thủ công”. Tuy nhiên khi dẫn chiếu với quy định về giao
dịch điện tử thì pháp luật Việt Nam vẫn xem việc đặt hàng thông qua cuộc gọi điện
thoại, fax, email dƣới hình thức thủ công và những cách thức trên đƣợc xem là giao
dịch thƣơng mại điện tử theo quy định. Và theo quan điểm của ngƣời viết, việc quy
định nhƣ pháp luật Việt Nam có phần hợp lý, bởi nếu mở rộng cách thức giao dịch
bằng những quy định pháp luật thực định sẽ khiến mối quan hệ đó đƣợc luật điều
chỉnh, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp các bên, so với việc loại trừ thì các cơ chế
phi chính thức của thị trƣờng làm cho pháp luật trở nên đứng ngoài các mối quan hệ
kinh tế. Hơn thế, ngày nay việc phát triển các phần mềm ứng dụng trên điện thoại di
động đang phát triển một cách mạnh mẽ, và hầu hết các giao dịch đƣợc thực hiện
thông qua ứng dụng đó hoặc những cách thức thƣơng mại trực tuyến đƣợc thực hiện
thông qua bên trung gian thứ ba. Do vậy, cách định nghĩa của pháp luật Việt Nam
hiện hành về phƣơng tiện điện tử mang tính phổ quát cao, tạo điều kiện cho các chủ
thể kinh doanh đƣợc thực hiện những quyền tự do kinh doanh của mình cũng nhƣ
không tạo ra những rào cản thƣơng mại trong việc công nhận một phƣơng tiện nào
đó có đƣợc xem là phƣơng tiện điện tử trong hoạt động thƣơng mại hay không.
Không dừng lại ở đó, (ii) Phƣơng tiện điện tử còn hiểu rộng hơn khi mà các
chủ thể tham gia không nhất thiết phải thực hiện một quy trình giao dịch hoàn toàn

9 Điều 4.10 Luật Giao dịch điện tử 2005.
13

bằng phƣơng tiện điện tử10, chẳng hạn mua bán hàng hoá thông qua trang bán hành
trực tuyến (website), ngƣời mua hàng có thể thực hiện việc thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt cho ngƣời bán mà không bắt buộc việc thanh toán phải thực hiện trực tuyến
hoặc suốt quá trình giao dịch phải đƣợc thực hiện hoàn toàn thông qua phƣơng tiện
điện tử. Tóm lại, hình thức thƣơng mại điện tử đƣợc xem là phần đặc trƣng và tạo
nên đƣợc sự khác biệt so với những giao dịch truyền thống thông thƣờng, bởi những
tính năng và hiệu quả của nó ngày càng đƣợc ngƣời kinh doanh cũng nhƣ ngƣời tiêu
dùng sử dụng nhƣ một phần thiết yếu của cuộc sống, và cùng với những triết lý kinh
tế, cái gì giảm chi phí giao dịch, gia tăng lợi nhuận cùng với những tiện ích mà nó
mang lại sẽ đƣợc ngƣời dân đón nhận một cách dễ dàng vào trong cuộc sống.
Thứ ba về thời gian và không gian của thương mại điện tử. Có thể khẳng định
thời gian và không gian trong thƣơng mại điện tử là yếu tố then chốt và quyết định
những tiện ích mà thƣơng mại điện tử mang lại. Theo đó, thƣơng mại điện tử không
giới hạn thời gian mà các bên tham gia giao dịch, dựa vào tính năng lƣu trữ, truyền
dẫn thông tin của phƣơng tiện điện tử mà nhu cầu của các bên có thể gặp gỡ đƣợc
với nhau tại bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Cũng nhƣ, giới hạn không gian dƣờng
nhƣ cũng trở nên mờ nhạt ở thời buổi công nghệ số, khi mà một ngƣời ở quốc gia
này có thể đặt hàng, mua hàng hoá hoặc đƣợc cung ứng dịch vụ bởi một chủ thể
đang hoạt động trên vùng lãnh thổ, quốc gia khác. Một minh chứng trên thực tế là
những trang bán hàng trực tuyến lớn thế giới hiện nay nhƣ: Amazon, Bestbuy, Ebay,
Alibaba,… có trụ sở thƣơng mại hoạt động ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên,
ngƣời tiêu dùng của những trang bán hàng này là những cƣ dân đang sinh sống rộng
khắp các quốc gia trên thế giới, và cũng chính nhóm ngƣời tiêu dùng này cũng là đối
tƣợng đƣợc các doanh nghiệp bán hàng trực tuyến hƣớng đến. Qua đó, ranh giới
lãnh thổ của các quốc gia hiện nay trong lĩnh vực thƣơng mại nói chung dƣờng nhƣ
không có giới hạn, và sự hiện diện các thƣơng hiệu, các sản phẩm nổi tiếng của

10 Điều 4.7 Luật Giao dịch điện tử 2005: “Giao dịch điện tử tự động là giao dịch điện tử được
thực hiện tự động từng phần hoặc toàn bộ thông qua hệ thống thông tin đã được thiết lập sẵn”.
14

những quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau trên cùng một thị trƣờng không khó bắt
gặp trong cuộc sống của mỗi cƣ dân toàn cầu hiện nay.
1.1.2 Thƣơng mại điện tử trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
Một xã hội xem trọng nông nghiệp đã khiến kinh tế Việt Nam tụt hậu so với
những nƣớc có cùng xuất phát điểm trong một khoảng thời gian dài. Không những
vậy, việc trải qua những cuộc chiến tranh cũng nhƣ chính sách kinh tế hậu chiến
tranh khiến kinh tế nƣớc nhà có những bƣớc lùi so với những quốc gia cùng khu
vực. Ngày nay, kinh tế Việt Nam không nằm ngoài những sự vận động mà kinh tế
thế giới đang chuyển biến. Dễ nhận thấy nhất là sự giao thoa và hiện diện thƣơng
mại lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực cũng nhƣ giữa các quốc gia trên thế
giới ngày càng rõ nét thông qua những chính sách mở cửa thị trƣờng và thu hút đầu
tƣ và cải cách hành chính công do nhà nƣớc Việt Nam đang kiên định theo đuổi11.
Một trƣờng hợp điển hình chính cho vấn đề vừa nêu chính là sự xuất hiện gần đây
của hai thƣơng hiệu nổi tiếng: Uber12 và Grab13 trong thị trƣờng vận chuyển hành
khách thông qua việc cung ứng ứng dụng đặt phƣơng tiện di chuyển trực tuyến, và
chính sự xuất hiện của cách thức kinh doanh mới mẻ đó đã đặt ra nhiều vấn đề khiến
cơ quan quản lý nhà nƣớc Việt Nam phải giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Chẳng
hạn, liên quan đến chính sách thuế nhà nƣớc (thuế thu nhập doanh nghiệp – doanh
nghiệp cung ứng có phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp hay không, thuế thu nhập
cá nhân – ngƣời sử dụng ứng dụng để thực hiện kinh doanh thì thuế thu nhập cá
nhân đƣợc tính nhƣ thế nào nhằm đảo bảo quyền lợi của ngƣời tham gia nhƣng vẫn

11 Trang thông tin điện tử Thủ tƣớng Chính phủ, 2018. Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc tại Diễn đàn VBF 2018. Truy cập tại: http://thutuong.chinhphu.vn.
12 Nguồn https://vi.wikipedia.org. “Uber là một công ty kinh doanh mạng lưới giao thông vận
tải và công ty taxi dựa trên ứng dụng có trụ sở tại San Francisco, California, và hoạt động tại các
thành phố ở nhiều nước. Công ty sử dụng một ứng dụng điện thoại thông minh để nhận được yêu
cầu đi xe, và sau đó sẽ gửi các yêu cầu đi đến lái xe”.
13 Nguồn https://vi.wikipedia.org. “Grab là một công ty công nghệ có trụ sở tại Singapore
cung cấp dịch vụ vận chuyển và đi lại bằng xe hơi tại Singapore và các quốc gia Đông Nam Á”.
15

đảm bảo chính sách thuế của nhà nƣớc); các chính sách liên quan đến phúc lợi của
ngƣời lao động (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,…) – có thực
hiện đƣợc hay không khi mà bên cung ứng ứng dụng và bên nhận cung ứng liên kết
với nhau thông qua hợp đồng đối tác hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh chứ không
phải mối quan hệ thuần tuý giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Nhìn
một cách phổ quát thì thị trƣờng thƣơng mại điện tử Việt Nam đang là thị trƣờng
tiềm năng và thƣơng mại điện tử đang ngày càng trở nên gần gũi với cuộc sống
thƣờng nhật của ngƣời dân hiện nay14,15. Không dừng lại ở đó, thƣơng mại điện tử
cung cấp những tiện ích cho ngƣời tiêu dùng trong thời đại công nghệ số khi mà
những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống đều đƣợc cung cấp. Chẳng hạn, nhu cầu tiêu
dùng (đặt hàng trực tuyến, thanh toán trực tuyến, giao hàng thông qua đơn vị vận
chuyển), nhu cầu di chuyển (thông qua ứng dụng đặt vé trực tuyến, đặt phƣơng tiện
thông qua ứng dụng điện thoại di động), nhu cầu học tập, tìm hiểu (đào tạo từ xa –
thông qua các trang giáo dục trực tuyến), nhu cầu dịch vụ (đăng ký thủ tục hành
chính trực tuyến, cấp visa online,…) và nhiều lĩnh vực khác tiệm cận cuộc sống mỗi
ngƣời dân hiện nay. Tuy nhiên, đứng trƣớc những cơ hội mà thƣơng mại điện tử
mang lại cũng đặt ra nhiều thách thức mà pháp luật Việt Nam vẫn còn phải thực
hiện nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho các giao dịch phát triển. Chẳng hạn, những
vấn đề liên quan đến bảo mật thông tin khách hàng, ngƣời tiêu dùng; vấn đề về cam
kết và bảo đảm chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ trong quá trình giao kết và thực hiện
giao dịch thƣơng mại điện tử; vấn đề thuế đối với doanh thu của những trang bán

14 Cục Thƣơng mại điện tử và Kinh tế số, 2018. Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2018.
“Tốc độ tăng trưởng trong một số lĩnh vực cụ thể rất ngoạn mục. Đối với lĩnh vực bán lẻ trực tuyến,
thông tin từ hàng nghìn website thương mại điện tử cho thấy tỷ lệ tăng trưởng doanh thu năm 2017
tăng 35%”.
15 Cục Thƣơng mại điện tử và Kinh tế số, 2017. Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam
2017. “Tỷ lệ người dùng Internet tham gia mua hàng trực tuyến năm 2016: 62% và năm 2017:
65%; Các kênh mua sắm trực tuyến thống kê năm 2016: Website TMĐT bán hàng, Sàn giao dịch
TMĐT, Website mua hàng theo nhóm, Ứng dụng mua hàng trên thiết bị di động và hình thức khác”.
16

hàng trực tuyến không mang tƣ cách pháp nhân cũng nhƣ những vấn đề quản lý
khác có liên quan mà trong thời gian tới pháp luật Việt Nam cần có những sự sửa
đổi và bổ sung cho phù hợp.
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.2.1 Khái niệm và cơ sở pháp lý của hợp đồng thƣơng mại điện tử
Nếu nhƣ ở phần trên đề cập đến những khía cạnh có liên quan để nhận diện thế
nào là một giao dịch thƣơng mại điện tử thì ở phần này, việc xem xét những giao
dịch đó dƣới góc nhìn pháp lý hiện hành cũng nhƣ những văn bản khác có liên quan
là vấn đề trọng tâm mà luận văn hƣớng đến. Theo đó, Điều 33 Luật Giao dịch điện
tử 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông
điệp dữ liệu16”. Nhận thấy, pháp luật Việt Nam không đƣa ra một định nghĩa thế nào
là một hợp đồng điện tử cụ thể hoặc định nghĩa thông qua phƣơng thức liệt kê các
giao dịch thƣơng mại điện tử mà quy định dựa trên cách thức hoạt động của giao
dịch, tạo nên sự tƣơng đồng so với cách quy định về hợp đồng điện tử của một số
nƣớc trên thế giới và khu vực17. Chính cách quy định đó đã tạo nên sự rộng mở cũng
nhƣ thuận lợi cho các chủ thể có thể thực hiện mới hoặc phát triển các giao dịch
tƣơng ứng. Bởi lẽ, một điều luật với vai trò điều chỉnh mang tính phổ quát cao có
thể điều chỉnh đƣợc những hoạt động của nhóm quan hệ pháp luật so với việc định
nghĩa trực tiếp làm hạn chế những giao dịch mới phát sinh và khiến những nhóm
quan hệ đó ngoài sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành, đây cũng là vấn đề chung
của việc lập pháp nƣớc ta hiện nay. Bên cạnh đó, đứng trƣớc việc khoa học công
nghệ ngày càng một phát triển nhanh chóng, việc chi tiết hoá một điều khoản liên
quan đến hợp đồng điện tử cũng trở nên dễ lỗi thời khi mà pháp luật vốn dĩ luôn ở
trạng thái tĩnh so với các giao dịch thƣơng mại điện tử trên thị trƣờng luôn biến

16 Điều 4.12 Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định: “Thông điệp dữ liệu là thông tin được
tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”.
17 Article 48 of E-Commerce Law of The people’s republic of China 2018: “E-commerce
parties use of automatic information systems to form or perform contractual action is legally
effective as to the party using that system”.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *