11874_Động cơ học tập của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
….o0o….

PHẠM VĂN SỸ

ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN SỸ

ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC
TS. LÊ XUÂN HỒNG

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến:
– Quý Thầy Cô giảng dạy chương trình Cao học Tâm lý học – Khoa Tâm lý
Giáo dục trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn và
truyền đạt tri thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học thời
gian qua.
– Ban giám hiệu nhà Trường cùng Quý Thầy Cô phòng Sau đại học trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành tốt khóa học.
Đặc biệt xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Lê Xuân Hồng – người đã luôn
đồng hành và tận tình hướng dẫn, góp ý xây dựng trong từng bước nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn tất cả những người thân và bạn bè đã quan tâm, động viên và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Trân trọng!

Phạm Văn Sỹ

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Tất
cả các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Phạm Văn Sỹ
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Khái quát khách thể nghiên cứu ………………………………………………… 39
Bảng 2.2: Mức độ quan tâm của sinh viên về mục đích học tập …………………… 41
Bảng 2.3: Lý do quyết định học đại học ……………………………………………………. 42
Bảng 2.4: So sánh lý do học đại học của sinh viên năm thứ nhất và sinh viên
năm thứ tư …………………………………………………………………………………………….. 45
Bảng 2.5: Lý do sinh viên chọn trường ĐH KHXH&NV …………………………….. 46
Bảng 2.6: Lý do chọn trường ĐH KHXH&NV của sinh viên năm thứ nhất và
thứ tư kết hợp với nguyện vọng xét tuyển …………………………………………………. 49
Bảng 2.7: Động cơ học tập của sinh viên thể hiện qua mục đích học tập ……….. 50
Bảng 2.8: Thái độ học tập của sinh viên khi đã hình thành mục đích học tập….. 57
Bảng 2.9: Hành vi học tập của sinh viên
……………………………………………………. 60
Bảng 2.10: Yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập ……………………………………… 67
Bảng 2.11: So sánh sự ảnh hưởng tới động cơ học tập của yếu tố gia đình
với địa bàn cư trú ……………………………………………………………………………………. 69
Bảng 2.12: Sinh viên tự đánh giá về động cơ học tập của bản thân ……………….. 72
Bảng 2.13: Biện pháp khuyến khích sinh trong quá trình học tập ………………….. 75

MỤC LỤC

MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………………………………..
1
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………….
8
CƠ SỞ LÝ LUẬN …………………………………………………………………………………………………
12
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………………………………………….
12
1.1.1. Quan điểm phi Mác-xít về động cơ ………………………………………………………….
12
1.1.2. Quan niệm của Tâm lý học Mác-xít về động cơ
…………………………………………
14
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập
………………………………………
17
1.2. Động cơ
………………………………………………………………………………………………………
20
1.2.1. Một số khái niệm về động cơ
…………………………………………………………………..
20
1.2.2. Một số thuyết về động cơ
………………………………………………………………………..
21
1.2.3. Phân loại động cơ
…………………………………………………………………………………..
24
1.2.4. Mối quan hệ giữa động cơ với nhu cầu và ý thức
……………………………………….
25
1.3. Hoạt động học tập và động cơ học tập của sinh viên
…………………………………………
26
1.3.1. Hoạt động học tập của sinh viên
………………………………………………………………
26
1.3.1.1. Khái niệm hoạt động
………………………………………………………………………..
26
1.3.1.2. Cấu trúc của hoạt động …………………………………………………………………….
28
1.3.1.3. Phân loại hoạt động
………………………………………………………………………….
29
1.3.1.4. Hoạt động học tập ……………………………………………………………………………
29
1.3.2. Động cơ học tập của sinh viên …………………………………………………………………
31
1.3.2.1. Khái niệm và phân loại …………………………………………………………………….
32
1.3.2.2. Biểu hiện của động cơ học tập
…………………………………………………………..
33
1.3.2.3. Mối quan hệ giữa động cơ học tập và hoạt động học tập ………………………
33
1.3.2.4. Sự hình thành động cơ học tập ………………………………………………………….
34
1.3.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập ………………………………………….
35
1.3.2.6. Giáo dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên ……………………………….
35
Chương 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
…………………………………………………..
40
2.1. Vài nét về trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM………………………….
40
2.2. Cách tổ chức nghiên cứu thực trạng động cơ học tập của sinh viên
…………………….
43
2.1.1. Giai đoạn khảo sát thăm dò
……………………………………………………………………..
43
2.1.2. Giai đoạn khảo sát chính thức
………………………………………………………………….
43
2.3. Khái quát về khách thể nghiên cứu
…………………………………………………………………
45
2.4. Kết quả nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên
……………………………………….
48
2.4.1. Mức độ quan tâm của sinh viên về việc học
………………………………………………
48
2.4.2. Động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV ………………………………
57
2.4.2.1. Động cơ học tập thể hiện qua mục đích học tập …………………………………..
57
2.4.2.2. Động cơ học tập thể hiện qua thái độ học tập
………………………………………
64
2.4.2.3. Động cơ học tập thể hiện qua hành vi học tập ……………………………………..
66
Trao đổi học thuật, du học dưới nhiều hình thức khác nhau …………………………………….
67
2.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh viên ………………………..
73
2.4.4. Kết luận chung về động cơ học tập của sinh viên
……………………………………….
78
2.4.5. Biện pháp khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập ………………………….
81
2.4.6. Một số biện pháp giáo dục động cơ học tập cho sinh viên …………………………..
83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………………………………………………
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………………………………
92

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Môi trường giáo dục cạnh tranh và mang tính toàn cầu đem đến cho sinh viên
những điều kiện thuận lợi để tiếp cận, lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nhiều cơ
hội để khẳng định năng lực của bản thân. Sinh viên có thể tiếp cận với môi trường
giáo dục quốc tế, được học tập thông qua những công nghệ hiện đại, có được công
việc tốt với mức thu nhập cao… Tuy nhiên, để hoạt động nhận thức đạt hiệu quả,
ngoài việc biết nắm bắt, chuyển hóa tốt những cơ hội, sinh viên cần phải xác định rõ
ràng động cơ học tập cho bản thân. Động cơ học tập sẽ chi phối hoạt động nhận
thức và ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động ấy.
Động cơ học tập là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nhân
cách nói chung và trong hoạt động học tập của sinh viên nói riêng. Nó không chỉ tác
động tới kết qủa học tập của sinh viên mà còn ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân. Do vậy, khi nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM sẽ góp phần làm sáng tỏ
những cơ sở lý luận về động cơ và động cơ học tập, đồng thời làm cơ sở khoa học
để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo cho
sinh viên tại trường.
Qua tìm hiểu thực tiễn hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn TP.HCM tôi nhận thấy có một bộ phận sinh viên chưa tích
cực trong việc học tập và nghiên cứu khoa học, chưa nhận thức được vai trò quan
trọng của hoạt động học tập để rồi xây dựng cho mình những động cơ học tập phù
hợp. Điều này dẫn đến một thực trạng đáng buồn là sinh viên không tự giác, không
tích cực trong học tập, không say mê nghiên cứu khoa học, thậm chí học đối phó,
chán học, bỏ học… Do vậy, việc nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM sẽ tìm được câu trả lời đâu là động
cơ học tập của sinh viên để có những tác động giáo dục phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao cho công tác giáo dục.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Động cơ học
tập của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu động cơ học tập và các nhân tố tác động tới động cơ học tập của sinh
viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM. Trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp nhằm giáo dục, định hướng động cơ học tập của sinh viên, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo ở trường ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Động cơ học tập của sinh viên.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên năm thứ nhất (tương đương từ 1 đến 2 học kỳ) và sinh viên năm thứ
4 (tương đương từ 7 đến 8 học kỳ) hệ chính quy trường ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM, bao gồm các ngành: Địa lý, Tâm lý học, Báo chí, Ngữ văn
Anh, Ngữ văn Trung và Hàn Quốc học.
Giảng viên và cán bộ trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.

4. Giả thuyết khoa học
4.1. Hoạt động học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn
được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ khác nhau, trong đó nổi bật nhất là động cơ
hoàn thiện tri thức và yếu nhất là động cơ xã hội.
4.2. Động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn
chịu sự chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như hứng thú với ngành học,
thái độ học tập, môi trường học tập, môi trường xã hội…
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
5.2. Nghiên cứu động cơ học tập và các yếu tố tác động tới động cơ học tập
của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục, định hướng động cơ học tập của
sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu động cơ học tập và các yếu tố tác động tới
động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1. Phương pháp quan sát, dự giờ.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số
liệu.
Các thông số được sử dụng để nghiên cứu thực trạng gồm: trung bình (mean),
độ lệch chuẩn, các kiểm nghiệm T, F cho giá trị trung bình, Chi-square cho tỷ lệ
phần trăm.
8. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu về động cơ, động cơ học tập và các yếu tố tác động tới
động cơ học tập của sinh viên góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về động
cơ học tập, đồng thời giáo dục động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học
Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn bao gồm 03 phần
chính là phần mở đầu, kết quả nghiên cứu, kết luận và kiến nghị.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi bàn về vấn đề động cơ, mỗi trường phái thường xuất phát từ những quan
điểm, nguyên tắc phương pháp luận khác nhau. Do vậy, trong các tài liệu Tâm lý
học, trên bình diện nghiên cứu lý luận, có rất nhiều quan điểm khác nhau về động
cơ.
1.1.1. Quan điểm phi Mác-xít về động cơ
S.Freud (1915) – người tiêu biểu cho thuyết bản năng cho rằng: những bản
năng là nguồn gốc năng lượng, là động lực chủ yếu thúc đẩy mọi hoạt động của con
người. Những người theo học thuyết này nhìn nhận con người như một “tồn tại”
sinh học và có “hệ động cơ” như là những năng lượng sinh học đặc biệt. Năng
lượng này được tạo ra bởi những bản năng của con người, trong đó quan trọng nhất
là bản năng về tình dục (Libido). Freud cho rằng “phần lớn các bản năng tác động
một cách vô thức, song chúng lại ảnh hưởng đến các suy nghĩ, tình cảm cũng như
hành động có ý thức của ta, đôi khi ta lại ở trong thế xung đột với các đòi hỏi của
xã hội”. [10; 367] Clark Hull (1952) là người phát triển đầy đủ nhất của thuyết xung năng cho
rằng: động cơ là cần thiết trong quá trình học tập và học tập là điều cốt lõi cho sự
thích nghi có hiệu quả với môi trường. Tương tự như Freud, Clark Hull nhấn mạnh
vai trò sự căng thẳng trong động cơ, ông cho rằng giảm căng thẳng có ý nghĩa củng
cố. Theo quan điểm này, các xung năng sơ cấp có cơ sở sinh học được khơi dậy khi
sinh vật bị tước đoạt. Những xung năng này hoạt hóa sinh vật, khi được thỏa mãn
hoặc giảm thiểu thì sinh vật ngừng hoạt động. Thuyết giảm xung năng mang ý
nghĩa cân bằng nội tại là vì nó cho rằng một sinh vật bị khơi dậy xung năng là để
duy trì thế cân bằng nội tại, một thế cân bằng bên trong các hệ và các quá trình của
cơ thể. Thuyết giảm xung năng cân bằng nội tại này của động cơ và học tập đã có
ảnh hưởng cho tới giữa nhưng năm 1950 khi nó bị thách thức bởi các dữ kiện mới.
[10; 368] Đại diện mới của thuyết Phân tâm Atler cho rằng: ý chí đối với quyền lực là
động lực của những động cơ quyền lực và hành vi của con người, về thực chất, ý
chí quyền lực cũng là sức mạnh của bản năng nhưng tồn tại dưới hình thức khác.
Trong khi đó C.Hull, S.Koch lại quan niệm động cơ như là sự đói khát, nghỉ ngơi,
tranh đấu, sinh dục… Các nhà Tâm lý học hành vi (Skiner, Watson) giải thích
nguồn gốc của năng lực hành vi là những lực trừu tượng khó nhận biết, là bản năng
vô thức của con người. Họ quan niệm hành vi của con người chính là tổng hợp
những phản ứng đáp lại các kích thích.
Abraham Maslow (1970) đại diện cho thuyết Nhân văn về động cơ của con
người đã cắt nghĩa cả những hành động làm giảm căng thẳng lẫn những hành động
làm tăng căng thẳng. Maslow đối lập khái niệm động cơ do thiếu hụt, trong đó con
người tìm kiếm để phục hồi thế cân bằng sinh lý hoặc tâm lý, với khái niệm động cơ
muốn thăng tiến, trong đó con người làm nhiều hơn so với điều chỉ để làm giảm
thiếu hụt là vì con người tìm kiếm nhằm thể hiện đầy đủ nhất tiềm năng của mình.
Ngoài có động cơ muốn thăng tiến, có thể chấp nhận sự bấp bênh, sự căng thẳng và
thậm chí là sự đau đớn nếu họ nhìn thấy nó là một cách thể hiện đầy đủ tiềm năng
của mình và là một cách hoàn thành mục tiêu.[10; 372] Các tác giả K.Levin, Zei-garmik, K.Lissner… cho rằng: động cơ chỉ là sự tác
động qua lại giữa những nội lực ở bên trong với trường lực ở bên ngoài. Các tác giả
này đều phủ nhận và trò của ý thức đối với hành vi của con người và mới chỉ đề cập
đến khía cạnh nội dung của động cơ, tức là chưa chú ý đến vai trò của chủ thể hoạt
động trong mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng. Do vậy, họ đều không tìm thấy
bản chất thực sự của động cơ hành vi con người.
Theo A.N.Leontiev khi nghiên cứu về động cơ Tâm lý người, các nhà Tâm lý
học phương Tây đã coi hệ động cơ như là những kích thích tích cực của con người,
mà những kích thích đó mang tính chất bản năng sinh học và được tạo ra một cách
bẩm sinh [11]. Mặt khác, họ lại chủ quan coi động cơ được quyết định bởi các yếu
tố thuộc hoàn cảnh bên ngoài. Cách hiểu như vậy dẫn đến sự lẫn lộn giữa các hiện
tượng hoàn toàn khác loại và những mức độ hoàn toàn khác biệt điều chỉnh hoạt
động của con người.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên đây của các nhà Tâm lý học phương
Tây xuất phát từ sai lầm về phương pháp luận trong nghiên cứu Tâm lý con người
nói chung và nghiến cứu về động cơ nói riêng. Họ nghiên cứu Tâm lý con người ở
trạng thái siêu hình (con người là một thực thể sinh học) tách rời khỏi hoạt động,
tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội mà con người đang sống.
1.1.2. Quan niệm của Tâm lý học Mác-xít về động cơ
Dòng phái Tâm lý học Mác-xít với những đại diện tiêu biểu như
L.X.Vưgotsky, A.N.Leontiev, X.L.Bubinstein… cho rằng: con người không phải là
“con người sinh vật” thuần túy, không phải là “con người cá nhân” đối lập với xã
hội mà con người là “con người xã hội” với tất cả những mối quan hệ, những hoạt
động có ý thức của nó. Ý thức – Tâm lý con người được sinh ra bởi hoạt động của
chủ thể nhằm lĩnh hội và tạo lập các mối quan hệ xã hội, tạo ra sản phẩm vật chất và
tinh thần để cải tạo và xây dựng xã hội, khẳng định bản thân, từ đó hình thành nên
bộ mặt tâm lý của mỗi con người [12]. Vì vậy, muốn hiểu được tâm lý người, trước
hết phải đi từ cuộc sống thực của con người thông qua những hoạt động và các mối
quan hệ xã hội của con người [5].
Trong “Hoạt động – Ý thức – Nhân cách”, Leontiev cho rằng: động cơ hoạt
động của con người cực kỳ đa dạng được nảy sinh từ những nhu cầu, hứng thú khác
nhau. Một hoạt động có thể xuất phát từ nhiều động cơ thúc đẩy và trong cấu trúc
của hoạt động, những động cơ này được sắp xếp theo một hệ thống có thứ bậc [11].
Theo A.N. Leontiev, động cơ là đặc trưng chủ yếu trong tâm lý con người, nó
thúc đẩy và điều khiển mọi hoạt động của con người. Ý thức và quá trình nhận thức
của con người đã được phát triển trong quá trình hình thành động cơ của họ. “Động
cơ là một cái khách quan mà trong đó nhu cầu tìm kiếm bản thân mình trong những
điều kiện nhất định, cái khách quan ấy làm cho hoạt động thành hoạt động có đối
tượng, và là cái hướng hoạt động vào một kết quả nhất định”. [7; 273] Lý luận của Tâm lý học nhân cách chỉ ra rằng, động cơ có cấu trúc hết sức
phức tạp, có nhiều hệ thống và tùy thuộc vào hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi
trong những giai đoạn phát triển mà loại động cơ nào trở nên chiếm ưu thế trong
cấu trúc thứ bậc đó. Theo A.N.Leontiev, “Động cơ là một hiện tượng tâm lý sâu kín
nhất. Ngay cả với những nhân cách đã trưởng thành không phải bao giờ cũng ý
thức đầy đủ động cơ hoạt động của mình. Các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một
cách khách quan bằng cách phân tích hoạt động. Còn trong lĩnh vực chủ quan thì
các động cơ chỉ thể hiện dưới các dạng gián tiếp của nó, tức là dưới hình thức
những trải nghiệm, những mong ước, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục đích”. [11;
239] A.N.Leontiev là người đại diện tiêu biểu cho dòng phái Tâm lý học Mác-xít đã
có những nghiên cứu đầy đủ và rõ ràng về lý luận động cơ của con người. Những
kết quả nghiên cứu của ông đã được nhiều nhà Tâm lý học trên thế giới vận dụng và
phát triển để làm cơ sở khi nghiên cứu về động cơ của con người.
Các nhà tâm lý học Việt Nam đã có sự thống nhất cao với các nhà tâm lý học
Xô Viết, nhất là ý kiến của A.N. Leontiev và B.Ph.Lomov… khi bàn về khái niệm
động cơ. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng: những đối tượng đáp ứng nhu
cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, một khi chúng bộc lộ ra,
được chủ thể nhận biết sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Khi ấy, nó sẽ trở
thành động cơ của hoạt động.
Trong từ điển Tâm lý do Nguyễn Khắc Viện chủ biên đã nêu rằng: động cơ là
những gì thôi thúc con người có những hành vi ứng xử nhất định. Động cơ thường
gắn liền với nhu cầu, nhu cầu chưa được thoả mãn tạo ra tình trạng căng thẳng, thôi
thúc hoạt động cho đến khi thoả mãn.
Tác giả Hồ Ngọc Đại khi nghiên cứu về động cơ đã kết luận: chiếm được cái cụ
thể hoá nhu cầu của họ đó là động cơ hoạt động của họ. Đối tượng là động cơ đích
thực của hoạt động. “Động cơ có hai nơi ở bên ngoài và bên trong tâm lý. Khi nó ở
bên ngoài thì hoạt động lên đối tượng này gọi là hoạt động ở hình thái bên ngoài,
nếu nó ở bên trong thì hoạt động tác động lên nó là hoạt động bên trong. Trong cả
hai trường hợp bao giờ cũng là sự gặp gỡ giữa chủ thể và đối tượng của hoạt động”.
Cũng theo tác giả, mục đích học tập là một biểu hiện cụ thể của một khâu trong
chuỗi logic của đối tượng học tập. Như vậy, quá trình đạt mục đích học tập cũng là
quá trình hình thành động cơ trong điều kiện cụ thể xác định của tiến trình hoạt
động (học tập), cho nên không thể có một động cơ nào khác bên ngoài hoạt động áp
đặt vào cho nó nghĩa là không thể có một quá trình riêng rẽ hình thành động cơ học
tập bên ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ học tập. Trong thực tiễn giáo dục,
động cơ học tập phải được cụ thể hóa thành hệ thống mục đích, do đó việc chiếm
lĩnh đối tượng được thực hiện một cách hiện thực bởi chủ thể dưới hình thức thực
hiện các nhiệm vụ học tập. [5, 217] Theo tác giả Phạm Minh Hạc, động cơ là các đối tượng bên ngoài chứa đựng
trong bản thân chúng khả năng thỏa mãn nhu cầu. [7; 273] Như vậy, những cái trở thành yếu tố tâm lý hướng dẫn, thúc đẩy chủ thể hoạt
động đều là biểu hiện cụ thể của động cơ. Động cơ là hiện tượng tinh thần với tư cách
là động lực tâm lý. Qua tiếp thu những thành tựu của tâm lý học Mác-xít và trên cơ sở
phân tích các công trình nghiên cứu trong nước, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm về
động cơ như sau: Động cơ là những cái được chủ thể phản ánh, trở thành yếu tố tâm
lý thúc đẩy và kích thích con người hoạt động nhằm đạt được mục đích và thoả mãn
các nhu cầu của cá nhân.

1.1.3. Một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập
Trong tâm lý học, động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm
và khái niệm động cơ thường được dùng như một khái niệm trung tâm để lý giải về
hành vi của con người.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về động cơ học tập
nhưng chủ yếu là ở lứa tuổi học sinh, còn ở lứa tuổi sinh viên thì không nhiều.
Tác giả Nhâm – Văn – Chăn – Con trong luận văn thạc sĩ “Tìm hiểu động cơ
học tập của học sinh cấp 2” đã kết luận rằng: động cơ nhận thức tạo nên sự say mê,
ý thức tự giác của chủ thể học sinh trong học tập và dẫn đến những kết quả cụ thể
của hoạt động học tập. Vì vậy, động cơ nhận thức là một trong những yếu tố trực
tiếp quyết định hiệu quả giáo dục. Cũng theo tác giả, để hình thành và phát triển
động cơ học tập cần phải phát huy tính tích cực nhận thức của người học, xóa bỏ lối
dạy học nhồi nhét và cần phải có những thay đổi, cải tiến về nội dung, phương pháp
dạy học. [2] Tác giả Khăm – Phăn – Khăm – On trong luận án tiến sĩ: “Động cơ học tập và
quan hệ của nó với nguyện vọng chọn nghề của học sinh Lào” đã đưa ra kết luận:
động cơ học tập chi phối trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. Những hành
động biểu hiện động cơ học tập rõ nét và mạnh mẽ trong quá trình học tập đặc biệt
là loại học sinh có kết quả học tập khá và giỏi. Chính những kết quả học tập là điều
kiện quan trọng để đáp ứng những nhu cầu, khát vọng tiếp thu tri thức, ý thức trách
nhiệm của họ đối với đất nước. [15; 108] Tác giả Trịnh Quốc Thái trong luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu động cơ học tập
của học sinh lớp một dưới ảnh hưởng của phương pháp nhà trường” đã đưa ra kết
luận: hoạt động học tập của các nhóm học sinh lớp một đều được thúc đẩy bởi một
hệ thống những động cơ có nội dung phong phú và đa dạng. Những động cơ này
không tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ, rời rạc mà chúng được sắp xếp theo một
thứ bậc nhất định: có động cơ chiếm ưu thế, có những động cơ giữ vai trò thứ yếu
tạo thành một cấu trúc động cơ học tập từ khi các em bắt đầu tiến hành hoạt động
học tập. Cấu trúc đó được sắp xếp lại và sẽ được phát triển trong quá trình cả năm
học. [20; 110] Tác giả Lý Minh Tiên trong luận văn thạc sĩ: “Bước đầu xác định một số đặc
điểm động cơ quá trình giải bài tập của học sinh lớp 10 và 11 ở một số trường phổ
thông trung học nội thành thành phố Hồ Chí Minh” cho rằng: ngoài hai nhóm động
cơ là động cơ bên ngoài, động cơ bên trong thì còn có một nhóm nữa là động cơ
trung gian. [21] Tác giả Trần Nguyễn Hương Giang trong luận văn thạc sĩ: “Những yếu tố ảnh
hưởng đến động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông Marie Curie, quận 3,
thành phố Hồ Chí Minh” đã đưa ra kết luận: trong quá trình tiến hành hoạt động
học tập, động cơ học tập sẽ được hình thành theo hai hướng là động cơ xuất phát từ
hoạt động học tập và từ mối quan hệ của chủ thể với môi trường xung quanh. Mặt
khác, động cơ học tập của học sinh được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ, trong
đó có những động cơ đóng vai trò chủ yếu và có những động cơ đóng vai trò là thứ
yếu. Nhóm động cơ lĩnh hội tri thức luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình
học tập của học sinh. [6; 83] Những công trình trên khi nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh đều chỉ
ra rằng: hoạt động học tập được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ khác nhau
nhưng những động cơ này có sự liên quan, chi phối, tác động qua lại với nhau mà
trong đó, có những động cơ giữ vị trí cơ bản, có những động cơ giữ vị trí thứ yếu.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về động cơ học tập của tuổi học sinh
còn có một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập của lứa tuổi sinh viên.
Tác giả Dương Thị Kim Oanh trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của
sinh viên trường đại học Bách Khoa” đã cho rằng: động cơ học tập của sinh viên rất
đa dạng (bao gồm động cơ nhận thức khoa học, động cơ xã hội, động cơ nghề
nghiệp và động cơ tự khẳng định) và những động cơ này bị chi phối bởi nhiều yếu
tố chủ quan và khách quan như niềm tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm, hứng
thú học tập hay các mối quan hệ như gia đình, bạn bè… [14] Tác giả Lê Nguyễn Minh Loan trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của
sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn” đã đề cập đến khía cạnh
nội dung và lực của động cơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nội dung của động cơ
học tập (khía cạnh nhận thức) được hình thành đậm nét ở sinh viên, và những động
cơ này muốn có “lực” thì phải được thể hiện ở việc vượt qua những hành động cụ
thể. [13] Tác giả Đặng Quốc Thành trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của học
viên ở các nhà trường quân sự” cho rằng hoạt động học tập của học viên ở các nhà
trường quân sự được thúc đẩy bởi những động cơ chủ yếu như: động cơ chính trị xã
hội, động cơ nhận thức khoa học, động cơ nghề nghiệp và động cơ tư lợi riêng. [17] Tác giả Phạm Thị Hồng Thái trong luận văn thạc sĩ “Động cơ học tập của
sinh viên ngành Tâm lý học trường đại học Văn Hiến” đã chỉ ra rằng có sự tồn tại
song song giữa những động cơ học tập đúng đắn với những động cơ không đúng
đắn ở sinh viên, do đó cần phải có những biện pháp giáo dục động cơ để sinh viên
hoàn thiện động cơ học tập của mình. [19; 52] Nhìn chung, những tác giả này khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh
viên đều có chung nhận định: động cơ học tập của sinh viên rất đa dạng và bị chi
phối bởi nhiều yếu tốt khác nhau.

1.2. Động cơ
1.2.1. Một số khái niệm về động cơ
Khi nghiên cứu về hành vi con người, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: động
cơ có một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của họ. Động cơ chính là “lực”
thúc đẩy con người hành động nhằm đạt được mục đích của mình.
Động cơ trong tiếng Latin là Motif – có nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy con
người hành động. Nguyên nhân này nằm bên trong chủ thể có thể xuất phát từ nhu
cầu sinh lý hay tâm lý (vì đói khát mà con người đi tìm thức ăn, nước uống; vì yêu
quý thầy cô mà trẻ học hành…).
Khi nghiên cứu về động cơ, một số nhà Tâm lý học phương Tây đưa ra định
nghĩa: “động cơ là những nhu cầu hoặc ước muốn mà nó phục vụ cho tính tích cực
của hành vi và hướng trực tiếp tới mục tiêu [4; 396]. Cũng có tác giả cho rằng:
“động cơ liên quan đến những câu hỏi tại sao người ta lại hành xử, nghĩ và cảm thấy
cách mà họ làm. Động cơ của hành vi có năng lực, có hướng và được duy trì liên
tục. [3; 368] A.N.Leontiev định nghĩa: “Động cơ là đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu
cầu khác, nó thúc đẩy hay điều khiển hành động của con người”, hay “cái gì khi
được phản ánh trong đầu con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn
một nhu cầu nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động ấy. [23; 14] Theo A.V. Petrovski: “Động cơ là đối tượng kích thích hoạt động liên quan tới
sự thỏa mãn một nhu cầu nào đó”. [15; 153] Tác giả Nguyễn Quang Uẩn khi nghiên cứu về động cơ thì cho rằng: động cơ
là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, nảy sinh tính tích cực
và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực
tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi. [24; 206] Theo Bùi Ngọc Oánh, động cơ học tập là “sức thúc đẩy hoạt động học, là cái
mà vì nó học sinh thực hiện hoạt động học, tức là học để làm gì”. [1] Theo Nguyễn Thạc, “động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm đạt
mục đích nhất định”. [18; 123] Tác giả Dương Thị Kim Oanh khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh
viên đã nêu ra khái niệm như sau: động cơ là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có
khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt
động của chủ thể nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó. [14] Tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau khi nghiên cứu về
động cơ hoạt động của con người. Mỗi tác giả có cách nhìn nhận khác nhau nhưng
giữa họ vẫn tồn tại điểm chung khi cho rằng: động cơ là yếu tố tâm lý thúc đẩy, quy
định sự lựa chọn và hướng của hành vi con người. Động cơ là cái được phản ánh
vào trong đầu con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu
cầu nhất định.
1.2.2. Một số thuyết về động cơ
• Thuyết bản năng (William Dougall, 1908)
Những người theo thuyết này cho rằng, bản năng là những xu hướng bẩm sinh
hoặc những lực sinh học quyết định hành vi.
Nhà tâm lý học William Dougall, đại diện tiêu biểu của thuyết bản năng nhận
định: động cơ thúc đẩy con người hành động là những bản năng. Bản năng là những
thiên hướng mang tính di truyền gồm ba thành tố: một phương diện tạo thành năng
lượng chung, một phương diện hành động và một phương diện nhắm vào mục đích.
Một quan điểm khác về thuyết bản năng là của Sigmund Freud, ông cho rằng
các bản năng của con người, trong đó có bản năng sống (như là tình dục) và bản
năng chết là những bản năng không có chủ tâm, không có ý thức cũng chẳng có
chiều hướng tiền định, và con người đòi hỏi được tồn tại nhằm thỏa mãn các nhu
cầu thể xác, và những nhu cầu này tạo ra năng lượng tâm thần. Sự căng thẳng trong
đời sống điều khiển chúng ta đi tới các hoạt động hoặc các đối tượng, nhờ hoạt
động làm giảm căng thẳng. Theo Freud, phần lớn các bản năng tác động một cách
vô thức, song chúng lại ảnh hưởng đến suy nghĩ, tình cảm cũng như hành động có ý
thức của ta, đôi khi ta ở trong thế xung đột với các đòi hỏi của xã hội.
• Thuyết xung năng
Trong những năm 40 và 50 của thế kỷ XX các nhà tâm lý học đã đưa ra khái
niệm nhu cầu và xung năng để giải thích động cơ bằng thuyết xung năng – giải tỏa.
Theo nhà tâm lý học Robert Woodworth, động cơ là một xung năng thầm kín
quyết định ứng xử. Xung năng được xem là năng lượng giải phóng từ kho dự trữ
của sinh vật, nó là năng lượng không đặc hiệu, không phương hướng. Xung năng là
nhiên liệu của hành động, được khơi dậy do có kích thích và sẵn sàng được chuyển
tới các hoạt động nhắm vào mục tiêu.
Lý thuyết về xung năng sau này được Clark Hull phát triển một cách đầy đủ
khi cho rằng động cơ là cần thiết cho quá trình học tập và học tập là điều kiện cốt
lõi để thích nghi với môi trường. Clark Hull nhấn mạnh vai trò của căng thẳng trong
động cơ, giảm căng thẳng có ý nghĩa củng cố động cơ.
Thuyết xung năng – giải tỏa chỉ giải thích được động cơ của những hành động
thỏa mãn nhu cầu sinh học của cơ thể nhưng không giải thích được những hành
động thỏa mãn những nhu cầu xã hội, tinh thần, trong đó có những nhu cầu mà để
thỏa mãn nó con người cần phải chấp nhận sự căng thẳng.
• Thuyết khích lệ
Khích lệ là những nhân tố thuộc môi trường đang khuyến khích, động viên, lôi
kéo chúng ta làm những việc gì đó, tham gia vào những hoạt động nào đó, cho dù
phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả, nguy hiểm để đạt được điều khích lệ. Khác với
những xung năng bên trong cơ thể thúc đẩy ta hành động, các kích thích lệ thuộc về
môi trường xung quanh bên ngoài để thu hút, lôi kéo chúng ta hành động.
Thuyết khích lệ là thuyết giải thích rằng: sở dĩ chúng ta chấp nhận làm những
việc căng thẳng, khó khăn, nguy hiểm là do chúng ta bị thu hút, lôi kéo bởi những
cái khích lệ chúng ta như sự ca ngợi, sự công nhận, sự tặng thưởng của xã hội đối
với chúng ta.
• Thuyết nhận thức
Thuyết nhận thức cho rằng, có hai loại động cơ khác nhau là động cơ ngoại lai
và động cơ nội tại. Động cơ ngoại lai là động cơ của những hành động nhằm mục
đích chiếm lĩnh những đối tượng đang có trong môi trường để thỏa mãn những nhu
cầu sinh học hoặc để có được những sự khích lệ, những tặng thưởng đến với mình
từ môi trường. Trong khi đó, động cơ nội tại là động cơ của những hành động mà
bản thân hành động và hoạt động này là sự tặng thưởng cho cá nhân chủ thể, hoặc là
sự thực hiện niềm tin, những sự mong đợi của chủ thể.
Thuyết nhận thức về động cơ là thuyết cho rằng con người hành động, hoạt
động là do nhận thức được hành động ấy, hoạt động ấy là sự tặng thưởng cho mình,
là niềm tin và mong đợi của mình, là sự thực hiện động cơ nội tại của mình.
• Thuyết nhân văn
Lý thuyết về động cơ của con người được nhà tâm lý học theo thuyết Nhân
văn Abraham Maslow cắt nghĩa là cả những hành động làm giảm căng thẳng lẫn
hành động làm tăng căng thẳng. Maslow đối lập với khái niệm động cơ do thiếu hụt,
trong đó con người tìm kiếm nhằm phục hồi thế cân bằng sinh lý hoặc tâm lý mà ở
đó con người làm nhiều hơn so với điều kiện chỉ để làm giảm sự thiếu hụt là vì con
người tìm kiếm nhằm để thực hiện đầy đủ tiềm năng của mình.
Theo lý thuyết này, người có động cơ muốn thăng tiến có thể chấp nhận sự
bấp bênh, sự căng thẳng thậm chí sự đau đớn nếu họ cho rằng đó là cách thể hiện
tiềm năng của mình và là một cách hoàn thành mục tiêu. Những mục tiêu có ý nghĩa
và những giá trị nhân cách là xứng đáng với sự hy sinh và đau khổ ấy.
Tóm lại, qua các lý thuyết trên đây ta thấy rằng mỗi lý thuyết được các nhà
nghiên cứu nhìn nhận, tiếp cận ở mỗi phương diện, mỗi góc độ khác nhau, do đó
khái niệm về động cơ cũng được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy
mỗi lý thuyết cũng đều có những mặt tích cực và những hạn chế riêng của nó.
1.2.3. Phân loại động cơ
Tác giả A.A.Xmiêc-nôp chia động cơ thành hai nhóm: động cơ tiềm tàng và
động cơ có hiệu lực thực; động cơ lớn, lâu dài và động cơ nhỏ, trước mắt. [23] Các nhà Tâm lý học hoạt động cho rằng: hoạt động của con người bị chi phối
bởi nhiều động cơ khác nhau, trong đó có những động cơ giữ vai trò chủ đạo và
những động cơ có vai trò thứ yếu. Những động cơ này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau và trong từng hoàn cảnh cụ thể, chúng tạo thành một hệ thống gọi là thứ bậc
các động cơ.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, động cơ có hai loại là động cơ gần và động cơ
xa. Trong đó, động cơ xa là mục đích chung của hoạt động, động cơ gần là mục
đích bộ phận – mục đích của từng hành động. [7] Trong khi đó, tác giả Nguyễn Quang Uẩn chia động cơ ra làm sáu loại, bao
gồm: động cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ; động cơ quá trình và động cơ kết
quả; động cơ gần và động cơ xa; động cơ cá nhân; động cơ xã hội và động cơ công
việc; động cơ bên trong và động cơ bên ngoài; động cơ tạo ý và động cơ kích thích.
Các loại động cơ và các thành phần trong hệ thống động cơ có quan hệ chi
phối lẫn nhau. Tùy theo sự khác nhau về nội dung, tính chất cũng như vị trí của
chúng trong cấu trúc mà tác động thúc đẩy của chúng đối với hoạt động của chủ thể
là khác nhau và dẫn đến những kết quả hoạt động khác nhau. [24] Về mặt đạo đức, người ta còn phân biệt giữa động cơ tốt và động cơ xấu, trong
đó, động cơ tốt là động cơ thúc đẩy con người hoạt động vì lợi ích chính đáng của
cá nhân mình và không gây hại cho lợi ích của người khác và lợi ích của xã hội
hoặc tốt hơn nữa là chỉ vì lợi ích của xã hội; còn động cơ xấu là động cơ thúc đẩy
con người hoạt động vì lợi ích bất chính của mình, gây hại cho lợi ích của người
khác và lợi ích của xã hội.
Một số nhà tâm lý – giáo dục Việt Nam còn chia động cơ thành hai loại là
động cơ đúng đắn và động cơ chưa đúng đắn, theo đó, động cơ đúng đắn là những
yếu tố tâm lý thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn một nhu cầu chính đáng
của bản thân và phù hợp với đạo lý, pháp lý của xã hội; động cơ chưa đúng đắn là
những yếu tố tâm lý thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân
nhưng không phù hợp với đạo lý và pháp lý xã hội.
1.2.4. Mối quan hệ giữa động cơ với nhu cầu và ý thức
Động cơ là cái thúc đẩy hành động, nó gắn liền với việc thỏa mãn những nhu
cầu của chủ thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng
khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định xu hướng của nó. Điều đó nói lên
mối tương quan giữa động cơ với nhu cầu và ý thức của chủ thể.
• Mỗi quan hệ giữa động cơ với nhu cầu
Theo quan điểm Tâm lý học Mác-xít, nhu cầu là động lực đầu tiên thúc đẩy
hoạt động của con người, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động. Không có nhu
cầu của con người thì không có bất kỳ hoạt động nào của nó và sự tồn tại, phát triển
của mỗi cá nhân trong thế giới khách quan luôn gắn liền với các nhu cầu. Do vậy,
nhu cầu và động cơ có mối quan hệ với nhau: nếu như nhu cầu là động lực đầu tiên
kích thích con người hoạt động, là cơ sở của động cơ thì động cơ hướng dẫn, kích
thích và thúc đẩy hoạt động nhằm đạt được đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con
người. [14]

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *