10112_Khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm tại trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hoàng Thị Quý

KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NGƯỜI DÂN TỘC CHĂM TẠI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hoàng Thị Quý

KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NGƯỜI DÂN TỘC CHĂM TẠI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NINH THUẬN

Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số
: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này là do chính bản thân tác giả thực hiện, số liệu luận
văn trung thực do tác giả khảo sát các sinh viên và giáo viên, cán bộ quản lý trường
CĐSP Ninh Thuận năm học 2013 – 2014. Đề tài chưa từng được công bố dưới mọi
hình thức. Người cam đoan xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng sau đại
học, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh nếu vi phạm lời cam đoan trên.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Hoàng Thị Qúy
2

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
– Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
– Các phòng ban của Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
– Quý thầy cô Khoa Tâm lý – Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh
– Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô giáo và sinh viên trường CĐSP Ninh Thuận
– PGS. TS. Đoàn Văn Điều, người hướng dẫn khoa học
– Cha mẹ, anh chị trong gia đình
– Tất cả các bạn bè, đồng nghiệp, các bạn học viên cao học tâm lý học khóa 23.
Đã tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện, giúp đỡ, động viên, khuyến khích tác giả
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn cũng như con đường
phát triển tri thức của tác giả.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Hoàng Thị Qúy
3

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN …………………………………………………………………………………………….1
LỜI CẢM ƠN ………………………………………………………………………………………………….2
MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………………………….3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
………………………………………………..6
MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………………………………………….7
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………………………………7
2. Mục đích nghiên cứu
…………………………………………………………………………………9
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
……………………………………………………………9
4. Giả thuyết khoa học ………………………………………………………………………………….9
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
………………………………………………………………10
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………………………………………………10
7. Phương pháp nghiên cứu
…………………………………………………………………………10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN
……………………………………………………………………………………12
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về khó khăn trong hoạt động học tập
……………12
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới ……………………………………………..12
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam ………………………………………………17
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ………………………………………..21
1.2.1. Khó khăn
………………………………………………………………………………………..21
1.2.2. Khó khăn trong hoạt động học tập
……………………………………………………..22
1.3. Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trường CĐSP Ninh Thuận
…….23
4

1.3.1. Sinh viên sư phạm
……………………………………………………………………………23
1.3.2. Hoạt động học tập ……………………………………………………………………………31
1.3.3. Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trường CĐSP Ninh Thuận …….38
1.4. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân
tộc Chăm tại trường CĐSP Ninh Thuận ……………………………………………………..45
1.5. Nguyên nhân của những khó khăn trong hoạt động học tập
…………………..50
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NGƯỜI DÂN TỘC CHĂM TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ
PHẠM NINH THUẬN ……………………………………………………………………………………54
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu …………………………………………..54
2.1.1. Sơ lược về trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận………………………………54
2.1.2. Sơ lược về người dân tộc Chăm ở Ninh Thuận ……………………………………56
2.2. Thể thức và phương pháp nghiên cứu …………………………………………………..58
2.2.1. Công cụ nghiên cứu …………………………………………………………………………58
2.2.2. Mẫu nghiên cứu ………………………………………………………………………………61
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng ……………………………………………………………..62
2.3.1. Thực trạng khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc
Chăm tại trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận …………………………………………62
2.3.2. Thực trạng nguyên nhân của những khó khăn trong hoạt động học tập của
sinh viên người dân tộc Chăm tại trường CĐSP Ninh Thuận …………………………84
2.3.3. Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn và nâng cao chất lượng
học tập của sinh viên người dân tộc Chăm tại trường Cao đẳng sư phạm Ninh
Thuận ………………………………………………………………………………………………….. 101
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
………………………………………………………………………. 118
1. Kết luận ………………………………………………………………………………………………. 118
5

2. Kiến nghị …………………………………………………………………………………………….. 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
……………………………………………………………………………. 121
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………………… 127

6

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

CĐSP
:
Cao đẳng sư phạm

SV
:
Sinh viên

SVSP
:
Sinh viên sư phạm

GV
:
Giáo viên

HĐHT
:
Hoạt động học tập

ĐTB
:
Điểm trung bình

ĐLTC :
Độ lệch tiêu chuẩn

N :
Tần số

ANOVA :
Trị số kiểm nghiệm F

P :
Mức ý nghĩa

STT :
Số thứ tự

Nxb :
Nhà xuất bản

Tr. :
Trang

%
:
Tỉ lệ phần trăm
7

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cuộc sống con người là một dòng hoạt động liên tục không ngừng, thông qua
hoạt động mà bản chất con người bộc lộ, nhân cách của họ ngày càng hoàn thiện. Nói
cách khác, nhân cách con người là kết quả của quá trình hoạt động và giao tiếp. Muốn
tồn tại và phát triển, con người phải tham gia vào các hoạt động để sản xuất ra của cải
vật chất, phục vụ cho chính nhu cầu của bản thân và cộng đồng. Tuy nhiên không phải
lúc nào hoạt động của con người cũng diễn ra thuận lợi. Xuất phát từ những mục đích,
nhiệm vụ, vị trí và hoàn cảnh khác nhau mà mỗi cá nhân đều gặp phải những khó
khăn, trở ngại nhất định trong lĩnh vực hoạt động của bản thân. Khi những khó khăn,
trở ngại xuất hiện, đòi hỏi con người phải nỗ lực vượt qua nếu không chính nó sẽ ngăn
cản tiến trình hoạt động của mình, khiến quá trình hoạt động bị trì trệ, con người
không đạt được mục đích như mong muốn.

Đối với nước ta, trong thời điểm hiện nay, nhiệm vụ của ngành Giáo dục – Đào
tạo là đào tạo đội ngũ tri thức trẻ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên có chất lượng cao, có
đủ khả năng dạy học và giáo dục. Muốn làm được điều này thì hoạt động học tập có
vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của sinh
viên. Nhiệm vụ của các trường Cao Đẳng là “Đào tạo trình độ Cao đẳng giúp sinh
viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả
năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo” [37].
Do vậy các trường Cao đẳng Sư phạm phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo
những sinh viên sư phạm, trang bị cho họ những tri thức khoa học, kỹ năng nghiệp vụ
sư phạm.

Đối với sinh viên, học tập là một trong những hoạt động có tầm quan trọng lớn,
thông qua hoạt động học tập sinh viên tích lũy được hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
và dần hoàn thiện nhân cách của bản thân. Hoạt động học tập của sinh viên còn gọi là
hoạt động học tập nghề nghiệp, vốn học vấn tiếp thu được trong thời kỳ này hết sức
quan trọng vì nó là công cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau này
8

và là nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy, ở lứa tuổi này thì hoạt
động học tập có vai trò quan trọng và là hoạt động chiếm nhiều thời gian của sinh
viên, hàng ngày sinh viên phải đối mặt với rất nhiều thứ như chuẩn bị bài trước khi lên
lớp, hoạt động tự học và thảo luận… trong quá trình này sẽ nảy sinh ra nhiều khó khăn
gây cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của họ, dẫn đến hiệu quả trong học tập
không cao.

Thực tế ở các trường Cao đẳng Sư phạm hiện nay cho thấy chất lượng đào tạo
nói chung và kết quả học tập của sinh viên nói riêng không chỉ phụ thuộc vào tổ chức
giảng dạy của nhà trường, mà còn liên quan tới việc phát hiện và khắc phục những khó
khăn nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên. Đối với trường Cao đẳng Sư phạm
Ninh thuận, trong quá trình học tập sinh viên phải trải qua rất nhiều khó khăn, đặc biệt
là sinh viên các dân tộc thiểu số miền núi, trong đó có sinh viên là người dân tộc
Chăm. Những sinh viên này phải tiếp cận với nội dung tri thức mới với số lượng và
nội dung lớn hơn, phức tạp hơn so với phổ thông. Cách thức học tập cũng như phương
pháp dạy của thầy cũng rất khác so với phổ thông. Phần lớn những sinh viên này đều
xuất thân từ những gia đình có kinh tế khó khăn, trình độ học vấn của bố mẹ thấp, môi
trường học tập phổ thông cũng không thuận lợi. Vậy nên trình độ đầu vào của những
sinh viên này tương đối thấp, vốn ngôn ngữ phổ thông còn hạn chế, chưa có sự mạnh
dạn trong giao lưu học hỏi. Những yếu tố trên đã gây không ít những khó khăn cho
sinh viên trong quá trình học tập. Đứng trước những khó khăn đó nếu không có những
cách thức khắc phục khó khăn thì sẽ dễ làm cho sinh viên chán nản, bỏ bê việc học. Từ
đó tạo cho họ sự trì trệ, buông xuôi, phó mặc và không có động lực để phấn đấu.

Vì vậy, việc phát hiện những khó khăn cụ thể và tìm ra các biện pháp để khắc
phục những khó khăn nảy sinh trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc
Chăm, đồng thời giúp những sinh viên này tự tìm ra cho bản thân cách thức học tập
hợp lý, ý thức đầy đủ về những khó khăn sẽ gặp phải trong hoạt động học tập là việc
làm rất cần thiết nhằm góp phần nâng cao kết quả học tập của họ.

Hiện nay đã có một số đề tài nghiên cứu về khó khăn trong hoạt động học tập
của sinh viên song chưa có đề tài nào thực sự nghiên cứu về những khó khăn trong học
tập của sinh viên dân tộc Chăm. Mặt khác, chúng tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề về
9

những khó khăn trong học tập mà học sinh sinh viên hiện nay gặp phải, đặc biệt sinh
viên dân tộc Chăm đang theo học tại các trường Sư phạm hiện nay ở nước ta, trong đó
có trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận là nơi có số lượng lớn sinh viên người dân
tộc Chăm đang theo học.

Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Khó
khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm tại trường Cao
đẳng Sư phạm Ninh Thuận”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định một số khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc
Chăm, nguyên nhân của những khó khăn đó. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp
khắc phục những khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm
nhằm nâng cao kết quả học tập ở sinh viên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Khách thể chính: Sinh viên người dân tộc Chăm tại trường Cao đẳng Sư phạm
Ninh Thuận.

Khách thể bổ trợ: Cán bộ quản lý, giáo viên và sinh viên dân tộc khác tại
trường CĐSP Ninh Thuận.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm tại trường
Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận.
4. Giả thuyết khoa học

Sinh viên người dân tộc Chăm tại trường CĐSP Ninh Thuận thường gặp những
khó khăn trong hoạt động học tập như: Khó khăn về mặt ngôn ngữ, về môi trường học
tập và những khó khăn đó có ảnh hưởng nhất định đến kết quả học tập của họ. Có
nhiều nguyên nhân gây ra những khó khăn đó bao gồm cả những nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng nhiều
hơn.
10

5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

5.1. Nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng mức độ biểu hiện các loại khó khăn
trong hoạt động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm được biểu hiện ở 2 mặt là:
khó khăn về ngôn ngữ và môi trường học tập, một số nguyên nhân gây ra những khó
khăn đó và các biện pháp khắc phục những khó khăn trong hoạt động học tập của
sinh viên.

5.2. Địa điểm

Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận.

5.3. Đối tượng khảo sát

Sinh viên người dân tộc Chăm đang học năm thứ nhất và năm thứ hai các ngành
sư phạm hệ Cao đẳng chính quy thuộc trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận; giáo
viên và sinh viên dân tộc Kinh đang học tại trường.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu

6.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về khó khăn, khó khăn trong hoạt động
học tập, hoạt động học tập của sinh viên.

6.2. Khảo sát thực trạng về những khó khăn trong hoạt động học tập của sinh
viên người dân tộc Chăm tại trường CĐSP Ninh Thuận.

6.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong hoạt
động học tập của sinh viên người dân tộc Chăm.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận

Đề tài sử dụng các phương pháp luận khác nhau, trong đó có hai phương pháp
luận đóng vai trò chủ yếu:

7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc

Vận dụng quan điểm này để xây dựng cơ sở lý luận như khái niệm khó khăn,
khó khăn trong hoạt động học tập, biểu hiện, nguyên nhân, biện pháp nhằm khắc phục
những khó khăn trong hoạt động học tập. Nghiên cứu đề tài (xây dựng bảng hỏi, bình
luận thực trạng) được tiến hành trên cấu trúc đã được thiết lập.
11

7.1.2. Quan điểm thực tiễn

Khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên đã được một số tác giả nghiên
cứu trước đó và chỉ ra rằng có khó khăn ở các mức độ khác nhau. Sinh viên người
Chăm vừa có những đặc điểm của sinh viên nói chung, đồng thời cũng có những đặc
điểm riêng, đặc thù nên cũng không tránh khỏi gặp những khó khăn trong hoạt động
học tập của mình. Vì vậy, việc xác định được những khó khăn trong hoạt động học tập
của sinh viên người Chăm, phân tích những nguyên nhân gây ra những khó khăn đó và
đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn mà sinh viên gặp phải
trong học tập là có ý nghĩa thực tiễn, góp phần giải quyết những vấn đề của thực tiễn
đặt ra.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Mục đích: Thu thập tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ các
vấn đề lý luận của đề tài cần nghiên cứu.

Cách tiến hành: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục vụ cho việc
nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai và nghiên cứu thực tiễn.

7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài. Phương pháp được sử dụng
nhằm mục đích khảo sát thực trạng những khó khăn trong hoạt động học tập của sinh
viên, nguyên nhân chính của những khó khăn đó và một số biện pháp khắc phục. Bảng
hỏi được xây dựng dưới dạng phiếu thăm dò ý kiến theo các bước:

Bước 1: Xây dựng phiếu thăm dò mở

Bước 2: Xây dựng phiếu thăm dò thử nghiệm

Bước 3: Xây dựng phiếu thăm dò chính thức

7.2.3. Phương pháp thống kê toán học

Mục đích: Nhằm xử lý số liệu điều tra, từ đó làm cơ sở đưa ra những nhận định
khách quan về thực trạng những khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên người
dân tộc Chăm tại trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận.

Cách tiến hành: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu, sau đó đưa ra nhận
xét dựa trên số liệu đó.
12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về khó khăn trong hoạt động học tập

Trong lịch sử nghiên cứu những vấn đề tâm lý, vấn đề khó khăn nói chung và
khó khăn trong hoạt động học tập nói riêng đã được một số nhà nghiên cứu tâm lý xem
xét dưới nhiều góc độ, nhiều loại khách thể khác nhau. Sau đây chúng tôi xin đưa ra
một số quan điểm nghiên cứu về khó khăn nói chung và khó khăn trong hoạt động học
tập của một số tác giả của nước ngoài và Việt Nam.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Trong cuộc sống của mỗi người, học tập là một hoạt động không thể thiếu
được. Nó là phương thức giúp con người nhận thức thế giới một cách ngắn nhất và
thuận lợi nhất để con người có tri thức cải tạo thế giới phục vụ cho cuộc sống của
chính mình. Tuy nhiên, trong quá trình để con người biến những tri thức của nhân loại
thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân thì con người sẽ gặp không ít những khó
khăn.
Khi bàn về vấn đề khó khăn nói chung và khó khăn trong học tập thì ngay từ rất lâu,
một số tác giả như B. Kirsch, C. Wagner, S. Franz… ở Đức; L.A. Regus, A.L.
Liktarnikov, O.A. Basinger, D.H. Demidov… ở Liên Bang Nga đã có những công trình
nghiên cứu về khó khăn trong cuộc sống của học sinh và sinh viên. Dựa trên các kết
quả nghiên cứu, các tác giả đã làm sáng tỏ thực trạng và nguyên nhân một số khó khăn
thường gặp trong đời sống của học sinh, sinh viên như là một hiện tượng tâm lý xã
hội, chịu sự tác động của các quy luật phát triển tâm sinh lý lứa tuổi cũng như điều
kiện sống và hoạt động của họ [65].

Bên cạnh đó, trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Bianka Zazzo, giáo sư đại học
EPHE Pari cùng các cộng sự là 12 chuyên gia cấp cao về tâm lý, y khoa và giáo dục đã
nghiên cứu trẻ em từ lớp mẫu giáo đến cuối lớp 1 đã chỉ ra: “Khó khăn tâm lý lớn nhất
mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là sự thay
đổi môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo. Trẻ
mẫu giáo lấy hoạt động vui chơi làm hoạt động chủ đạo, vừa học vừa chơi, hoạt động
13

đa dạng, tính tự do tùy hứng cá nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của giáo viên, người lớn
tuổi. Bước sang lớp 1, học tập là hoạt động chủ đạo, học sinh phải chấp hành nghiêm
chỉnh mọi quy định theo sự chỉ đạo chặt chẽ của giáo viên, theo nguyên tắc lớp học. Vì
thế, trẻ nào vượt qua được khó khăn này thì sẽ học tốt, còn không vượt được thì sẽ dẫn
đến tình trạng chán học, kết quả không cao” [56, tr.19].

Cũng nghiên cứu về khó khăn trong hoạt động học tập học sinh lớp một, tác giả
A.V. Petrovxki đã chia khó khăn của trẻ em khi đi học lớp một làm ba loại:

+ Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới

+ Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và bạn bè

+ Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được chuẩn bị
của gia đình, nhà trường, xã hội nên trẻ có tâm trạng vui thích, sẵn sàng đi học, và sau
giảm dần khát vọng và chán học. [44]

Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến những nguyên nhân dẫn đến khó khăn, ảnh
hưởng của những khó khăn nêu trên đến đời sống của trẻ và đề xuất một số biện pháp
giải quyết khó khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu những khó khăn
nảy sinh trong hoạt động học tập nhưng đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở học
sinh lớp một.
Theo nhà tâm lí học Maurice Debesse, trong công trình nghiên cứu về những
khó khăn của trẻ đã chỉ ra rằng: Đứng trước ngưỡng cửa của lớp một, trẻ em gặp rất
nhiều khó khăn, nhất là khó khăn về mặt tâm lý. Điều này đã ảnh hưởng đến sự thích
ứng với hoạt động học tập, làm cho trẻ sợ học, không muốn tới trường và kết quả học
tập không cao [20].
Trong công trình nghiên cứu của mình, V.A. Cruchetxki đã đề cập đến những
khó khăn trong hoạt động học tập của thiếu niên. Theo tác giả, trong quá trình học tập
đôi khi có mâu thuẫn: Sự mong muốn trau dồi tri thức mâu thuẫn với thái độ bàng
quan và thậm chí thái độ xấu đối với học tập ở trường, thái độ “phớt đời” đối với điểm
số. Điều đó có thể là do phản ứng “độc đáo” với những thất bại nào đó trong học tập
và xung đột với giáo viên. Những mâu thuẫn này gây ra một số khó khăn đáng kể cho
thiếu niên.

Cũng theo tác giả, thiếu niên thường xúc động mạnh với những thất bại trong
việc học tập của mình, nhưng lòng tự trọng đôi khi khiến cho các em có thái độ thờ ơ
14

và lãnh đạm đối với thành tích học tập. Nguyên nhân làm giảm sút hứng thú học tập ở
các em có thể là do xuất hiện những thú vui khác mạnh mẽ hơn (đọc sách, chơi tem,
chơi cờ…) [5].

Schwarzer (1981) cho rằng: Ở tất cả các lớp học đều có một số học sinh hay sợ.
Khi có những yêu cầu về thành tích, chúng nhanh chóng cảm thấy bị đe dọa ghê gớm
và thường phản ứng lại bằng các trạng thái tâm lý bực dọc và hành vi nhận thức sai.
Người ta thấy luôn tương quan nghịch giữa một bên là sự lo sợ chung, sợ trường học
và sợ thi và một bên là những đòi hỏi thành tích nhận thức cao. [49]

Ballard và Clauchy (1985), trong cuốn cẩm nang của mình đã chỉ ra những khó
khăn trong quá trình học tập của từng sinh viên châu Á khi học tại các trường Đại học
của Úc. Hai tác giả đã khẳng định: Sinh viên đến từ các nền văn hoá khác nhau thường
đặt ra các mục đích khác nhau trong cách nghĩ và cách học của họ. Hầu hết sinh viên
nghĩ và học theo cách mà họ đã được đào tạo ở trường phổ thông và đại học, vì vậy họ
có thể đã thành công ở ngôi trường và đất nước của họ nhưng lại gặp thất bại ở đất
nước khác, môi trường học tập khác. Bằng kinh nghiệm và kiến thức khoa học của
mình các tác giả đã giúp một số sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh người
Nhật, Singapo, Indonexia tháo gỡ một số khó khăn trong quá trình học tập và nghiên
cứu tại trường Đại học của hai ông. Các tác giả kết luận: Sinh viên cần phải có một sự
chuyển biến lớn giữa các nền văn hoá, kiến thức khác nhau để thích ứng với môi
trường học tập mới. [77, tr.9-18] Trong bài báo: “Sốc văn hoá trong học đọc và viết: phát triển kỹ năng đọc, viết
ở trường đại học”, M. Nevile (1996) đã cho rằng: SV mới vào trường đại học không có
những kỹ năng đọc, viết để đảm bảo cho việc nghiên cứu ở trường đại học. Trong ý
thức của nhiều SV, các em quan tâm đến nội dung học tập hơn là việc phát triển những
kỹ năng đọc, viết. Nhiều SV không nhận ra việc viết bài luận của họ không chỉ cần thể
hiện sự chính xác về nội dung mà còn phải đảm bảo tính khoa học và có cấu trúc chặt
chẽ. Vì vậy, nhiều SV đã thất bại trong việc trình bày bài viết của mình. Các em đã
không biết thể hiện cấu trúc, ý tưởng cũng như đưa ra cách lập luận của mình cho phù
hợp với yêu cầu của giáo viên. SV cần phải có cái nhìn mới trong cách viết vì nó là
một trong những cách thể hiện ý nghĩ, hành động và sự định hướng giá trị phù hợp với
hoàn cảnh của các trường đại học hiện nay. [82, tr.7-10] 15

P.N. Sullivan (1996) trong bài báo của mình: “Ảnh hưởng của văn hóa xã hội
đến những kiểu tương tác trong lớp học”. Tác giả đã chỉ ra rằng: Những SV Việt Nam
đã quen với kiểu học tương tác mà trong đó việc nói “đan xen và đồng thời” là chuẩn
mực, khi sang học các lớp học ở Mỹ lại “im lặng” là do khó khăn tâm lý. Ở Việt Nam,
khi giáo viên đặt câu hỏi, một SV đứng lên trả lời, còn những SV khác nói lên suy
nghĩ của mình một cách “đan xen và đồng thời” với SV đó.Vì vậy, SV này có thể liên
hợp các câu trả lời khác nhau để cho mình câu trả lời đúng. Còn ở Mỹ, khi giáo viên
đặt câu hỏi SV thường tự trả lời, không trông chờ bất cứ một sự giúp đỡ nào từ bạn bè.
Do vậy, khi học ở Mỹ, SV Việt Nam có thể cảm thấy nhút nhát hoặc im lặng bởi
không khí mà trong đó một người nói tại một thời điểm là cưỡng bức. SV Việt Nam
thường coi những thành viên khác trong lớp là một phần cơ thể của mình, thiếu họ, SV
ấy cảm thấy cánh tay phải của mình đã bị gẫy. [85, tr. 32-34] M. Winkelman (2002-2003) với bài báo “Sốc văn hoá và sự thích ứng”, đã chỉ ra:
Bản chất của sốc văn hoá đã cho thấy phải nhận thức và hiểu được cần phải điều chỉnh
hành vi ứng xử cho phù hợp với các nét văn hoá bị sốc và có chiến lược thực hiện cho
việc giải quyết nó. Chiến lược thích ứng cần phải có sự chỉ dẫn của những người có liên
quan được thể hiện trên các tài liệu, phải được hướng dẫn về sự giao thoa văn hoá và vai
trò của sự giao thoa đó. [86] Theo các tác giả Quinn, Muldoon và Hollingworth (2002), sinh viên thường
gặp khó khăn trong việc hiểu rõ yêu cầu của nhiệm vụ học tập, quản lý thời gian, sử
dụng phương pháp học tập hiệu quả, sử dụng tri thức đã học vào bài thi… [84] Cũng
trong một nghiên cứu khác, Coll, Ali, Bonato và Rohindra (2006) đã tổng kết lý do
chủ yếu khiến sinh viên bỏ học một môn nhất định, trong đó có thể kể đến bản chất
trừu tượng của môn học, nội dung toán học phức tạp, sự thiếu hụt những giáo viên
nhiệt tình và có khả năng chuyên môn cao [79].
Trong một công trình mới đây, Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra những nhóm
khó khăn lớn mà sinh viên thường gặp phải khi học ở trường Đại học, đó là:
+ Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt đầu cuộc sống ở trường Đại học. Để
người thân, gia đình, bạn bè ở lại chốn quê nhà, sinh viên đến trường Đại học với nỗi
nhớ nhà và lo nghĩ về người thân.
16

+ Khó khăn khi sống ở môi trường mới cùng với người khác. Sinh viên phải
xem xét, lựa chọn nơi ở phù hợp với điều kiện kinh tế, đặc điểm cá nhân và giải quyết
mâu thuẫn có thể nảy sinh khi sống cùng người khác.
+ Khó khăn trong việc đảm bảo ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh
phí hạn hẹp. SV phải tự chuẩn bị thức ăn, lựa chọn thức ăn thay đổi và đủ chất dinh
dưỡng, luyện tập thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe.
+ Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ của cá nhân đối với khóa
học. SV cân nhắc sự phù hợp của nghề, khóa học đã lựa chọn với mong muốn của cá
nhân; quyết định tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển trường.
+ Khó khăn liên quan đến quan hệ xã hội. Nhiều SV gặp khó khăn trong việc
thiết lập quan hệ xã hội mới ở trường Đại học, tham gia các hoạt động cộng đồng để
làm phong phú đời sống xã hội của bản thân.
+ Khó khăn về kinh tế. Đây cũng là vấn đề gây nhiều khó khăn cho sinh viên,
làm sao để có đủ tiền đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu, mua sách vở, thiết bị phục
vụ hoạt động học tập. [83] Liên quan đến đối tượng SV có hoàn cảnh đặc biệt, Goodwin (2006) đã nghiên
cứu những kinh nghiệm liên quan đến thời gian học đại học của “sinh viên thiệt thòi”
ở Mỹ – sinh viên dân tộc ít người đã nhập cư vào Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
khó khăn mà nhóm SV này gặp trong thời gian học Đại học rất đa dạng về lĩnh vực,
mức độ khó khăn cũng như mức độ ảnh hưởng. Về lĩnh vực, nhóm SV này có khó
khăn liên quan đến hoạt động học tập, thích nghi với môi trường Đại học, quan hệ xã
hội, vấn đề cá nhân…Mỗi lĩnh vực lại bao gồm nhiều loại khó khăn khác nhau, có mức
độ ảnh hưởng và tầm ảnh hưởng khác nhau. Về mức độ khó khăn, các SV đối diện với
các khó khăn ở các mức độ khác nhau tùy theo lĩnh vực và từng cá nhân cụ thể. Về
mức độ ảnh hưởng, với nhiều sinh viên khó khăn được nhìn nhận như là thử thách
trong cuộc đời, giúp SV trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên không ít
SV khó khăn gặp phải trong thời gian học Đại học đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm
trí họ, gây căng thẳng, giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học
tập và tương lai nghề nghiệp của họ. [80] Tóm lại, các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về khó khăn nói chung và khó
khăn trong hoạt động học tập của học sinh, sinh viên ít nhiều đã chỉ ra được những vấn
17

đề lý luận về bản chất của khó khăn trong hoạt động học tập, nguyên nhân dẫn đến
những khó khăn đó, đồng thời các tác giả cũng đã chỉ ra được ảnh hưởng của nó tới
hoạt động học tập của học sinh, sinh viên…Tuy nhiên, khách thể nghiên cứu trong các
công trình nghiên cứu trên còn giới hạn. Vì vậy, việc nghiên cứu những khó khăn trong
hoạt động học tập của người học nói chung và của sinh viên nói riêng, trong đó có sinh
viên thuộc dân tộc thiểu số cần phải được các nhà Tâm lý học nghiên cứu nhiều hơn và
toàn diện hơn.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Từ trước đến nay, vấn đề khó khăn và khó khăn trong hoạt động học tập đã
được một số nhà tâm lí học, giáo dục học nghiên cứu, có thể kể đến các tác giả tiêu
biểu sau:
Tác giả Nguyễn Khắc Viện trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta” đã
nêu ra những khó khăn mà học sinh lớp 1 gặp phải đó là:
+ Trẻ phải giữ kỉ luật lớp học, phải ngồi yên cả buổi, cả tiết học, chịu áp lực, gò

+ Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo
+ Trẻ ít được vỗ về, âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra, đánh giá của
bố mẹ. [70] Trong tác phẩm “Sáu tuổi vào lớp 1” tác giả Nguyễn Thị Nhất đã chỉ ra nhiều
khó khăn mà trẻ lớp 1 phải vượt qua. Tác giả cho rằng: “Trong quá trình lớn lên của
trẻ em có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, trẻ em đòi
hỏi phải thay đổi phương thức hoạt động một cách triệt để”. Đồng thời tác giả cũng
nêu ra một số khó khăn cụ thể mà trẻ lớp 1 phải vượt qua:
+ Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tùy hứng ở
mẫu giáo để khép mình vào kỉ luật nghiêm khắc của lớp học phổ thông
+ Trẻ gặp những khó khăn trong quan hệ với thầy cô
+ Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào lớp 1 vì sự hân hoan chờ đón những điều hấp dẫn,
được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ. [42] Trong tác phẩm “Giải quyết những khó khăn trong học tập”, các tác giả Nguyễn
Xuân Nguyên và Nguyễn Đình Cửu cũng đã đưa ra một số khó khăn trong học tập và
18

những phương pháp học tập để giúp học sinh khắc phục khó khăn và đạt được kết quả
cao trong quá trình học tập [40].
Trong bài viết “Chuẩn bị tâm lí cho trẻ vào lớp 1”, tác giả Phạm Thị Đức cũng
nêu ra một số khó khăn của trẻ em khi đi học:
+ Trẻ chưa quen với chế độ học tập
+ Chưa có thói quen nắm các dữ kiện câu hỏi của bài tập, yêu cầu của cô giáo
trước khi bắt tay vào hành động
+ Nhút nhát, mất bình tĩnh trước hoàn cảnh mới
+ Chưa có động cơ học tập đúng đắn. [16] Tác giả Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết “Những khó khăn của học sinh miền
núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” đã phân tích những khó khăn của học
sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam và chỉ ra những khó khăn
mà học sinh gặp phải là [52]:
+ Hoàn cảnh giao tiếp của học sinh miền núi bị hạn chế
+ Vốn từ ngữ của học sinh miền núi còn thiếu và yếu
+ Năng lực cảm thụ một câu, một đoạn thơ yếu.
Theo tác giả nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tầm văn hoá, vốn sống,
vốn hiểu biết của học sinh còn hạn chế. Do vậy để nâng cao cảm thụ văn học ở học
sinh thì trước hết phải nâng cao tầm văn hoá của các em lên, cần mở rộng tầm hiểu
biết cuộc sống, xã hội cho học sinh. Những hoạt động ngoại khoá, tham quan du lịch,
câu lạc bộ văn học … là những hoạt động rất bổ ích đối với học sinh.
Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lí của trẻ khi vào học lớp 1”, tác giả Vũ
Ngọc Hà đã chỉ ra một số khó khăn mà trẻ thường gặp khi vào học lớp 1 đó là
[19,tr.57– 58]:
+ Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới
+ Khó khăn trong các mối quan hệ
+ Khó khăn khi phải đến trường.
Tác giả Lưu Song Hà với bài viết “Một số khó khăn trong học tập của trẻ vị
thành niên và cách ứng phó của các em” đã nêu ra những khó khăn mà trẻ vị thành
niên thường gặp phải trong hoạt động học tập, nguyên nhân của những khó khăn và
cách các em ứng phó đối với những khó khăn đó [21, tr.45 – 51].
19

Trong bài viết “Trẻ khó khăn trong học tập – Một vấn đề cấp bách cần được
nghiên cứu, giải quyết”, tác giả Mạc Văn Trang đã đưa ra một số khó khăn trong học
tập ở trẻ được biểu hiện về mặt tâm lý như sau [54, tr.24 – 27]:
+ Trẻ tập trung và phân phối chú ý kém
+ Ngôn ngữ và tư duy kém phát triển (có giới hạn)
+ Ghi nhớ có chủ định kém
+ Sự nhút nhát, cảm xúc lo hãi quá mức
+ Nhu cầu và hứng thú học tập chưa được chuẩn bị tốt
+ Hệ tâm vận có những hạn chế hoặc rối nhiễu nhất định
+ Sự kém thích ứng với hoạt động học tập và môi trường sư phạm.
Tác giả Nguyễn Xuân Thức với các bài viết “Khó khăn tâm lí của trẻ em đi học
lớp một”; “Thực trạng khó khăn tâm lí và biểu hiện của chúng ở học sinh lớp một tiểu
học” và “Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lí của học sinh đi học lớp một” đã
cho rằng: Trẻ em mẫu giáo lớn khi bước vào học lớp 1 gặp những khó khăn tâm lí mà
chính những khó khăn này làm cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của các em,
dẫn đến trẻ sợ học và kết quả học tập không cao. Trong đó, tác giả đồng ý với quan
điểm của A.V. Petrovxki, cho rằng khó khăn tâm lí của trẻ khi đi học lớp một gồm ba
loại [61, tr.18 – 20], [62, tr.32 – 35] đó là:
+ Thứ nhất: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới
mẻ
+ Thứ hai: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè.
+ Thứ ba: Trẻ mất dần khát vọng học tập ban đầu và chán học.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Xuân Thức cùng một số tác giả khác như Đào Thị
Lan Hương, Đỗ Văn Bình, Nguyễn Thế Hùng, Đặng Thị Lan cũng đã nghiên cứu về
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất một số trường sư
phạm. Kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy: Đa số sinh viên năm thứ nhất đều
gặp khó khăn tâm lý trong học tập, khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất thường
biểu hiện trên các mặt nhận thức, xúc cảm và kỹ năng học tập. Tuy nhiên, mức độ khó
khăn tâm lý không đồng đều ở sinh viên năm thứ nhất; sinh viên năm thứ nhất gặp khó
khăn nhiều nhất là kỹ năng học tập, thứ hai là nhận thức và ít nhất là về mặt xúc cảm
20

(thái độ) với hoạt động học tập và các khâu của hoạt động học tập. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, các tác giả cũng có những đề xuất về phía nhà trường và giáo viên để khắc
phục khó khăn tâm lý trong học tập cho sinh viên năm thứ nhất. [3], [30], [33], [63].
Tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc khi tìm hiểu một số khó khăn tâm lý của thiếu niên
và nhu cầu tư vấn của các em đã cho rằng: Những thay đổi của điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội đã làm cho thiếu niên gặp không ít khó khăn trong học tập “sự quá tải của
nội dung và chương trình giáo dục trong nhà trường, sức ép của những kỳ thi, sự kỳ
vọng của gia đình về con cái hoặc ngược lại, sự thiếu quan tâm của gia đình do một số
cha mẹ còn bận kiếm sống, những mâu thuẫn trong gia đình…đã tạo nên sức ép tâm lý
khiến nhiều thiếu niên rơi vào trạng thái băn khoăn, lo lắng, ảnh hưởng không thuận
lợi đến sự phát triển của các em” và những khó khăn mà thiếu niên thường gặp là:
+ Băn khoăn, lo lắng về sự phát triển cơ thể
+ Những khó khăn, vướng mắc trong học tập
+ Những khó khăn trong quan hệ, ứng xử với bạn
+ Những khó khăn trong quan hệ, ứng xử với bạn khác giới
+ Những khó khăn trong quan hệ, ứng xử với thầy cô
+ Những khó khăn trong quan hệ, ứng xử với cha mẹ. [47] Tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc (2007) trong một nghiên cứu khác về học sinh trung
học cơ sở cũng khẳng định: Những khó khăn tâm lý mà học sinh trung học cơ sở gặp
phải thường nảy sinh trong học tập, trong quan hệ ứng xử với bạn bè, cha mẹ, trong sự
phát triển cơ thể. Những khó khăn này đã ảnh hưởng phần nào đến cuộc sống và học
tập, làm một số học sinh trung học cơ sở có thái độ băn khoăn, lo lắng trong học tập
rèn luyện. Và khi gặp khó khăn, học sinh trung học cơ sở thường chia sẻ với bạn bè
hoặc tự giải quyết và những cách giải quyết này chưa thực sự hiệu quả. [48] Gần đây nhất, có một số công trình khoa học và bài viết của các tác giả đã quan
tâm nghiên cứu về khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên như:
+ Tác giả Nguyễn Thị Tình với đề tài cấp cơ sở: “Những khó khăn của sinh
viên trường Đại học sư phạm Hà Nội trong quá trình học tập theo học chế tín chỉ”. Đề
tài đã chỉ rõ: Sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội gặp nhiều khó khăn trong học
tập theo học chế tín chỉ, thứ tự lần lượt là: Khó khăn về kỹ năng học tập; khó khăn về
thái độ, động cơ, hứng thú học tập; khó khăn về các mối quan hệ trong học tập; khó
21

khăn về nhận thức về học tập theo học chế tín chỉ; khó khăn về môi trường học tập. Đề
tài cũng đã phân tích những nguyên nhân gây ra khó khăn và đề xuất một số biện pháp
giảm thiểu khó khăn trong học tập cho sinh viên theo học chế tín chỉ. [64] + Trong bài viết “Thực trạng khó khăn của sinh viên học kỳ 3 trường Đại học
sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình học tập theo hệ thống tín chỉ”, tác giả
Đoàn Văn Điều cũng đã chỉ ra một số khó khăn mà sinh viên gặp phải khi học theo tín
chỉ và cách đáp ứng của sinh viên đối với khó khăn trong việc học theo tín chỉ
[13,tr.62 – 70].
+ Tác giả Nguyễn Thị Tứ và Đào Thị Duy Duyên trong bài viết “Những khó
khăn trong cuộc sống của sinh viên năm nhất trường Đại học sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh” cũng đã đề cập đến một số khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất [65, tr.120 – 130].
Tóm lại, khó khăn trong hoạt động học tập đã được một số tác giả trong nước
quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu kể trên ít nhiều đã xây dựng được
một hệ thống lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Tuy nhiên các tác giả mới chỉ tập
trung nhiều ở việc nghiên cứu khó khăn trong hoạt động học tập của học sinh, sinh
viên nói chung mà ít chú ý đến đối tượng là sinh viên dân tộc thiểu số, trong đó có
sinh viên người dân tộc Chăm thì chưa có tác giả nào quan tâm nghiên cứu. Vì vậy,
việc tiếp cận nghiên cứu vấn đề này theo chúng tôi là còn mới và cần thiết.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Khó khăn
Trong từ điển Anh – Việt, từ “difficulty” được dùng để chỉ sự khó khăn, sự gay
go, sự khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục [72, tr.483].
Theo từ điển Pháp – Việt thì từ “difficulté” chỉ sự khó khăn, sự việc gây trở ngại
[15, tr.355], [73, tr.352].
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, “khó khăn” có nghĩa là có nhiều trở ngại
làm mất nhiều công sức. [75] Theo từ điển từ láy tiếng Việt, “khó khăn” nghĩa là có nhiều trở ngại. [24] 22

Theo N.V. Cudơmina trong tác phẩm “Sơ thảo tâm lý lao động của người giáo viên”
đã định nghĩa “khó khăn” là trạng thái của cảm giác căng thẳng, nặng nề không thỏa mãn do
các nhân tố bên ngoài và bên trong của hoạt động tạo nên và phụ thuộc vào:
– Tính chất của chính các nhân tố bên ngoài của hoạt động
– Sự chuẩn bị về trình độ văn hóa, chuyên môn, đạo đức và thể chất của con người đến
với hoạt động
– Quan hệ của con người với hoạt động. [4] I.ia. Lecne cũng chỉ ra rằng “khó” là một phạm trù chủ quan, mức độ “khó” phụ
thuộc vào khả năng và trạng thái của chủ thể. Một hành động như nhau về mức độ
phức tạp có thể có mức độ “khó” khác nhau đối với người này hay người khác [36].
Như vậy, trong hoạt động muôn màu muôn vẻ của mình, con người có thể gặp những
khó khăn muôn màu muôn vẻ khác nhau.
Qua các cách định nghĩa trên ta có thể thấy, khi bàn về “khó khăn” người ta
thường hiểu đó là những gì cản trở, trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua. Trong
thực tiễn, khi tiến hành bất cứ hoạt động nào, con người cũng gặp phải những trở ngại
làm cho hoạt động đó bị chệch hướng với mục đích đã đề ra từ trước, điều này có ảnh
hưởng xấu đến kết quả của hoạt động và những trở ngại, những vấn đề đó được xem là
các yếu tố gây nên khó khăn. Những khó khăn này gọi chung là những khó khăn trong
quá trình hoạt động của con người được tạo nên bởi các yếu tố mang tính chất tiêu
cực. Đó là những yếu tố khách quan (bên ngoài) và yếu tố chủ quan (bên trong).

Như vậy, trong đề tài này “khó khăn” được hiểu như sau: “Khó khăn là toàn
bộ những yếu tố khách quan (bên ngoài) và những yếu tố chủ quan (bên trong) xảy
ra trong quá trình hoạt động, không phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định, gây cản trở tới tiến trình và kết quả hoạt động của chủ thể”.
1.2.2. Khó khăn trong hoạt động học tập

Qua nghiên cứu và tổng hợp các tài liệu chúng tôi đưa ra định nghĩa về khó
khăn trong hoạt động học tập như sau: “Khó khăn trong hoạt động học tập là toàn bộ
những yếu tố khách quan (bên ngoài) và những yếu tố chủ quan (bên trong) xảy ra
trong quá trình học tập, không phù hợp với yêu cầu đặc trưng của hoạt động học
23

tập, gây cản trở và làm ảnh hưởng xấu tới tiến trình và kết quả hoạt động học tập
của người học”.
Khó khăn nảy sinh trong hoạt động học tập đó là những vấn đề chứa đựng
nhiều mâu thuẫn và luôn đòi hỏi người học phải nỗ lực vượt qua để giải quyết chúng
một cách hiệu quả nhằm thích nghi với hoạt động học tập. Khó khăn trong hoạt động
học tập bao gồm cả những yếu tố bên ngoài (khách quan) và những yếu tố bên trong
(chủ quan). Những yếu tố bên ngoài, được hiểu là những điều kiện, phương tiện hoạt
động, môi trường gia đình, nhà trường, xã hội… là những yếu tố tác động đến quá trình
học tập từ phía bên ngoài, những yếu tố này có ảnh hưởng gián tiếp tới tiến trình và
kết quả hoạt động học tập của người học. Còn những yếu tố bên trong, chính là những
yếu tố xuất phát từ bản thân nội tại mỗi người học khi tham gia vào hoạt động học tập
như sự thiếu hiểu biết sâu sắc về hoạt động, vốn kinh nghiệm hạn chế, việc thực hiện
các thao tác kỹ năng học tập không phù hợp trong quá trình hoạt động, khả năng ngôn
ngữ hạn chế… Các yếu tố bên trong là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình
và kết quả hoạt động học tập của người học.
1.3. Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trường CĐSP Ninh Thuận
1.3.1. Sinh viên sư phạm
1.3.1.1. Sinh viên
* Khái niệm sinh viên

Thuật ngữ SV có nguồn gốc từ tiếng la tinh “students” có nghĩa là người làm
việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm khai thác tri thức. Nó được dùng nghĩa tương
đương với từ “student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp để chỉ những
người theo học ở bậc Đại học và Cao đẳng, những người đang học tập và rèn luyện để
lĩnh hội một trình độ chuyên môn cao. Theo quy định của trường Đại học và Cao đẳng
thì lứa tuổi SV hiện nay thường là từ 17 đến 23 tuổi nghĩa là họ trùng với giai đoạn thứ
hai của tuổi thanh niên. [56]

Khái niệm SV được dùng với nghĩa rộng rãi “SV là đại biểu của nhóm xã hội
đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức nghề nghiệp để trở
thành chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hóa
xã hội khác”. [56]

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *