BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phùng Duy Hoàng Yến
THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG
VUI CHƠI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phùng Duy Hoàng Yến
THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG
VUI CHƠI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành :
Tâm lý học
Mã số
: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGUỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được
công bố trong công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Phùng Duy Hoàng Yến
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh và quý thầy cô khoa Tâm lý giáo dục đã tận tình giảng dạy
và hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Trần Thị Quốc Minh đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Phòng Sau đại học đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi trong thời gian học tập và bảo vệ luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Cao đẳng sư
phạm Trung ương TP.HCM đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành
chương trình học tập.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu và giáo viên hai trường: Mầm
non Thực hành và Mầm non Sài Gòn đã nhiệt tình cộng tác, tạo điều kiện cho tôi
khảo sát để hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn các bạn học viên lớp Tâm lý học K.21 đã quan tâm chia sẻ, động
viên tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã
cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Tác giả
Phùng Duy Hoàng Yến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ MẪU GIÁO ……
6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
……………………………………………………………………..
6
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới
…………………………………………
6
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam ……………………………………….
10
1.2. Những vấn đề lý luận về tính tự lực của trẻ mẫu giáo
………………………………
11
1.2.1. Khái niệm tính tự lực …………………………………………………………………….
11
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. …………………………
12
1.2.3. Tính tự lực của trẻ mẫu giáo
…………………………………………………………..
24
1.2.4. Nội dung giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong chương
trình giáo dục mầm non …………………………………………………………………
34
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
……….
35
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ……………………………………………………………………………..
42
Chương 2: THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
MẦM NON TẠI TP.HCM……………………………………………………….
44
2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở một số trường mầm non tại TP.HCM
…….
44
2.1.1. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………………..
44
2.1.2. Khách thể nghiên cứu
…………………………………………………………………….
44
2.1.3. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu …………………………………………………..
44
2.1.4. Phương pháp nghiên cứu
………………………………………………………………..
44
2.2. Tiêu chí và thang đánh giá TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi
……………………………………………………………………………………………..
46
2.2.1. Tiêu chí đánh giá nhận thức về TTL và hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
…………………………………………………….
46
2.2.2. Thang đánh giá nhận thức về TTL và hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trong hoạt động vui chơi
……………………………………………………….
47
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động vui chơi ở một số trường MN tại TP.HCM
……………………………..
48
2.3.1. Thực trạng nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi ……………………………………………………………………………………….
48
2.3.2. Thực trạng về hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi ……………………………………………………………………………………….
53
2.3.3. Phân tích thực trạng TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui
chơi trên các phương diện so sánh
…………………………………………………..
66
2.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến đến TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi ……………………………………………………………………………….
68
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ……………………………………………………………………………..
80
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
……………………….
81
3.1. Một số biện pháp phát triển TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi
……………………………………………………………………………………………..
81
3.1.1. Cơ sở để xây dựng một số biện pháp phát triển TTL của trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trong hoạt động vui chơi
……………………………………………………….
81
3.1.2. Đề xuất một số biện pháp phát triển TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vui chơi
………………………………………………………………..
82
3.2. Thử nghiệm một số biện pháp phát triển TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vui chơi ……………………………………………………………………..
91
3.2.1. Khái quát về tổ chức thử nghiệm …………………………………………………….
91
3.2.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm ………………………………………………………
93
3.2.3. Kết quả nghiên cứu sau thử nghiệm
…………………………………………………
99
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ……………………………………………………………………………
113
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………………
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB
: Điểm trung bình
ĐVTCĐ
: Đóng vai theo chủ đề
GV
: Giáo viên
GVMN
: Giáo viên mầm non
HĐVC
: Hoạt động vui chơi
MG
: Mẫu giáo
MN
: Mầm non
PTGT
: Phương tiện giao thông
TTL
: Tính tự lực
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi ……………………………………………………………………………..
48
Bảng 2.2. Kết quả nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi theo từng tiêu chí
……………………………………………………
49
Bảng 2.3. Hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
……
53
Bảng 2.4. Tính chủ động trước khi chơi ……………………………………………………….
54
Bảng 2.5. Tính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề trong khi chơi ………………..
55
Bảng 2.6. Tính sáng tạo và tự tin trong khi chơi ……………………………………………
57
Bảng 2.7. Tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến cùng …………………………….
60
Bảng 2.8.
Tự nhận xét, đánh giá khi kết thúc trò chơi
…………………………………….
61
Bảng 2.9. Đánh giá của GV về biểu hiện TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong
hoạt động vui chơi ………………………………………………………………………
62
Bảng 2.10. TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi theo giới tính
……
66
Bảng 2.11. TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi theo
trường ……………………………………………………………………………………….
67
Bảng 2.12. Đánh giá của GV về các hoạt động chủ yếu thể hiện TTL của trẻ
MG 5 – 6 tuổi …………………………………………………………………………….
68
Bảng 2.13. Đánh giá chung của GV về mức độ TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vui chơi
………………………………………………………………
68
Bảng 2.14. Đánh giá của GV về các yếu tố ảnh hưởng đến TTL của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ………………………………………..
69
Bảng 2.15. Mức độ thực hiện các biện pháp của giáo viên để phát triển tính tự
lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi …………………
75
Bảng 2.16. Đánh giá của GV về các biện pháp phát triển TTL của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ……………………………………….
78
Bảng 3.1. Nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVC của
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm trước thử nghiệm ………………..
93
Bảng 3.2. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính chủ động trong khi chơi …………………………..
95
Bảng 3.3. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí ính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề
trong khi chơi
……………………………………………………………………………..
96
Bảng 3.4. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính sáng tạo và tự tin trong khi chơi………………..
97
Bảng 3.5. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến
cùng ………………………………………………………………………………………….
98
Bảng 3.6. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tự nhận xét, đánh giá khi kết thúc trò chơi
………..
98
Bảng 3.7. Nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi HĐVC của nhóm
đối chứng và nhóm thực nghiệm sau thử nghiệm ………………………….
100
Bảng 3.8. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính chủ động trong khi chơi …………………………
101
Bảng 3.9. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề
trong khi chơi
……………………………………………………………………………
102
Bảng 3.10. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính sáng tạo và tự tin trong khi chơi………………
103
Bảng 3.11. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến
cùng ………………………………………………………………………………………..
104
Bảng 3.12. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tự nhận xét, đánh giá khi kết thúc trò chơi
………
105
Bảng 3.13. Nhận thức về TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVC của
nhóm thực nghiệm trước và sau thử nghiệm …………………………………
106
Bảng 3.14. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính chủ động trong khi chơi …………………………
107
Bảng 3.15. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề
trong khi chơi
……………………………………………………………………………
108
Bảng 3.16. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính sáng tạo và tự tin trong khi chơi………………
109
Bảng 3.17. Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVC theo tiêu chí tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến
cùng ………………………………………………………………………………………..
111
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất cần
những con người lao động độc lập, sáng tạo. Để đáp ứng những yêu cầu phát triển,
hệ thống giáo dục – đào tạo cần “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc
lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, sinh viên. Đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện
học vấn và tay nghề …”(Nghị quyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX).
Trẻ mầm non là tương lai của đất nước, là chủ nhân tương lai của xã hội
trong thế kỉ mới – thế kỉ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế kỉ của một nền văn hóa
thông tin với khoa học công nghệ – thế kỉ đòi hỏi những con người mới, hiện đại,
độc lập và tự chủ.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết TW 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa
VIII về định hướng phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước” ngành học mầm non đã xác định mục tiêu chăm sóc – giáo dục trẻ
mẫu giáo là: “cần phát triển một số giá trị, nét tính cách, phẩm chất cần thiết, phù
hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác …tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho việc học tập ở
lớp một và các bậc học sau này có kết quả”.
Cùng với chuẩn phát triển của trẻ 5 tuổi do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành
cho thấy, trẻ 5 tuổi phải có khả năng tự làm một số việc để phục vụ cho bản thân và
phải nhận thức những việc có thể làm được, không thể làm được. Như vậy, ở độ
tuổi này đòi hỏi trẻ phải có khả năng tự lực để có thể chủ động tham gia vào các
hoạt động ở trường mầm non cũng như ở gia đình.
Trong cuộc sống, tự lực là một phẩm chất nhân cách vô cùng quan trọng của
con người. Nhờ vào khả năng tự lực mà con người có khả năng tự hoạt động, tự cố
gắng tham gia và hoàn thành công việc trên cơ sở năng lực của bản thân.
2
Trong quá trình phát triển của trẻ em, các nhà TLH coi thời điểm lúc trẻ 6
tuổi là một bước ngoặt quan trọng. vì trẻ đã trở thành một học sinh và thực hiện một
nghĩa vụ mà xã hội giao cho đó là học tập – một hoạt động nghiêm túc.Trước
ngưỡng cửa này, trẻ phải được chuẩn bị chu đáo để đảm bảo tâm thế sẵn sàng bước
vào trường thổ thông. Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng cho việc đi học đòi hỏi trẻ phải có
sự phát triển nhất định về trí tuệ, ngôn ngữ, những phẩm chất nhân cách cần thiết
trong đó đặc biệt trẻ phải độc lập, tự giác để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động
mới, mối quan hệ mới. Vì vậy, phát triển tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẽ
có nhiều ý nghĩa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các chức năng tâm lý
như trí tuệ, ngôn ngữ, điều này không những tạo điều kiện giúp trẻ tự tin và nhanh
chóng hòa đồng vào mối quan hệ ở trường phổ thông mà điều quan trọng hơn là tạo
lập cho trẻ một phần nền tảng nhân cách vững vàng để trở thành người tự tin, năng
động, độc lập trong cuộc sống và tự lập nghiệp sau này.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ tham gia rất nhiều hoạt động khác nhau, trong đó
hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này là hoạt động vui chơi. Đây là hoạt động thể
hiện rõ rệt tính tự lực, chủ động của trẻ. Khi tham gia vào trò chơi, nếu trẻ có tính tự
lực trẻ tự tiến hành trò chơi mà không cần sự giúp đỡ của người lớn và trẻ sẽ có
nhiều cơ hội để thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Từ đó giúp trẻ tự tin, mạnh dạn
và cố gắng thực hiện nhiệm vụ để đạt được mục đích đề ra. Điều này khiến trẻ chơi
nhiệt tình, say mê. Và đây cũng là một điều kiện phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Nếu người lớn, mà nhất là giáo viên mầm non và phụ huynh sớm biết được
khả năng tự lực của trẻ, tôn trọng những biểu hiện tự lực của trẻ, cùng với những
biện pháp tác động đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện phát triển khả năng tự lực của bản
thân trẻ, hình thành những phẩm chất quý báu cần thiết cho trẻ bước vững vàng
bước vào cuộc sống và học tập sau này.
Trên thực tế, việc nghiên nghiên cứu về tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi không nhiều, một số công trình nghiên cứu đã tập trung vào các biện pháp giáo
dục tính tự lực cho trẻ ở gia đình và trong chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm
non mà chưa có công trình nghiên cứu nào về tính tự lực của trẻ ở độ tuổi này trong
3
hoạt động vui chơi.
Như vậy, việc tìm hiểu tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi là một nhiệm
vụ cần thiết, để trên cơ sở đó có thể đề xuất những tác động phù hợp nhằm phát
triển tính tư lực cho trẻ ở độ tuổi này để giúp trẻ chủ động, độc lập và tự tin trong
các hoạt động cũng như trong cuộc sống. Đó cũng chính là lý do chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên
cứu, đề ra một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tự lực của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi.
3.2. Khảo sát thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở một số
trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
– 120 trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở Trường mầm non Thực hành và Trường Mầm
non Sài Gòn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
– 16 giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non
Thực hành, Mầm non Sài Gòn, Mầm non 8 – Quận 5 và 10 Giảng viên đang công
tác tại Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh.
4
5. Giả thuyết khoa học
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã có biểu hiện của tính tự lực trong hoạt động vui
chơi ở trường mầm non nhưng ở mức trung bình. Nếu có một số biện pháp tác
động phù hợp sẽ phát triển tính tự lực của trẻ trong hoạt động vui chơi ở trường
mầm non.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
– Đề tài chỉ khảo sát thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động vui chơi (chủ yếu trò chơi Đóng vai theo chủ đề) ở trường mầm non.
– Đề tài chỉ nghiên cứu nhận thức về tính tự lực và hành vi tự lực của trẻ giáo
5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi.
6.2. Về phạm vi khảo sát
Chỉ khảo sát tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
ở 2 trường: Mầm non Thực hành và Mầm non Sài Gòn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các nguồn tài liệu, sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu, có
liên quan đến đề tài để tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2.Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Xây dựng bảng hỏi dành cho giáo viên và giảng viên để tìm hiểu về tính tự
lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
7.2.2 Phương pháp đàm thoại
Trò chuyện với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi về những việc mà trẻ có thể tự thực
hiện trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
5
7.2.3. Phương pháp quan sát
– Quan sát và ghi chép những biểu hiện tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi trong hoạt động vui chơi (chủ yếu trò chơi Đóng vai theo chủ đề) ở trường
mầm non.
– Quan sát việc sử dụng các biện pháp mà giáo viên sử dụng để phát triển
tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi.
7.2.4. Phương pháp thử nghiệm
Tiến hành thử nghiệm một số biện pháp nhằm giáo dục tính tự lực cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Các số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng toán thống
kê theo phần mềm SPSS 16.0.
8. Đóng góp mới của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tính tự lực của trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non. Qua đó đề xuất
một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ LỰC
CỦA TRẺ MẪU GIÁO
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề tính tự lực (TTL) đã được các nhà Triết học, Tâm lý học và Giáo dục
học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phương pháp, biện pháp khác nhau.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 – 479 TCN) – nhà giáo dục học, nhà văn hóa
lớn của Trung Quốc và của thế giới đã nghiên cứu sâu sắc về vấn đề nhân cách.
Theo Khổng Tử: con người phải tự lực trong tư duy, có nhân cách tự lực, đồng thời
cũng phải giúp người khác có được ý chí và tinh thần tự lực, tự cường. [16, tr.10]
Trong quá trình phát triển những tư tưởng triết học, Môngtenhơ (1553 – 1592)
– nhà giáo dục học nổi tiếng người Pháp đã đề ra triết lý nhân sinh: “Ta cần sống
cho ta, ta cần biết cách sống với chính mình”. Ông coi trọng cá tính, TTL của con
người. Ông kêu gọi mọi người tích cực và tự lực trong cuộc sống, yêu quý bản thân
mình. [16, tr 12].
Trong cuốn “Phương pháp giáo dục trong nhà nuôi trẻ” Maria Montesori
(1870 – 1952) đã thể hiện triết lý giáo dục sâu sắc “Không thể tự do nếu không tự
lực hay nói cách khác tự do và tự lực là hai khái niệm song hành. Trong các tác
phẩm sư phạm của mình, Maria Montesori coi tự lực là một phẩm chất nhân cách, là
con đường khách quan giúp trẻ vào đời. [16, tr 15]
Các nhà tâm lý học: S.L. Rubinstein, P.P.Condrachiep, A.C.Oxnhixki,
I.M.Gachelin đã đi sâu nghiên cứu bản chất của tính tự lực, ý nghĩa của chúng đối
với đời sống con người. Họ khẳng định rằng: Tự lực là phẩm chất nhân cách trung
tâm được hình thành bởi các quá trình tâm lý, bởi bản chất và năng lực của con
người và thể hiện trong hoạt động thực tiễn. Họ coi TTL là điều kiện và kết quả của
quá trình hoạt động nhận thức, là điều kiện của hoạt động sáng tạo, là chỉ số của
tính tích cực, là kỹ năng nhận ra và đề xuất phương pháp giải quyết các vấn đề mới.
[16, tr 17]
7
Trong những nghiên cứu của mình P.I. Pitcasictư đã khẳng định: TTL là một
phẩm chất nhân cách quan trọng của con người, hoạt động tự lực là con đường, là
phương tiện để giáo dục TTL cho trẻ. Ông nhấn mạnh quan điểm tự đặt vấn đề và tự
giải quyết vấn đề là biểu hiện cao nhất của TTL. Nấc thang đó cần được hình thành
ngay từ khi trẻ còn ở lứa tuổi mầm non. [16, tr 19]
Các nhà giáo dục tiền học đường đã nghiên cứu sâu về TTL. Tiêu biểu là các
tác giả: N.M. Axarina, L.I. Craxgorxki, G.N. Godina, A.P. Usova, v.v… Họ đều
thống nhất nhận định rằng: TTL là một phẩm chất nhân cách quý giá nhất, một yếu
tố quan trọng để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Phẩm chất này được hình thành ngay
từ lứa tuổi mầm non.Về đặc điểm hình thành và phát triển TTL của trẻ mẫu giáo,
G.N. Godina và N.M. Axarina cho rằng: TTL xuất hiện từ lúc trẻ 18 tháng, thể hiện
ở sự không phụ thuộc vào người lớn. Trong điều kiện giáo dục tốt trẻ mẫu giáo 5
tuổi có thể tự lực trong nhiều hoạt động khác nhau. [16, tr 20]
Như vậy, quan điểm cơ bản chung của các tác giả trên đều coi TTL là một
phẩm chất nhân cách quan trọng của con người, nó được hình thành ngay từ nhỏ,
TTL là điều kiện và kết quả hoạt động của trẻ trong các hoạt động khác nhau.
Một số nhà tâm lý học coi khả năng tự lực là một trong những nét đặc trưng
của nhân cách, đại diện là T.I. Ganhelin, A.A. Xơmirơnôp và E.U. Đơmitriev …họ
cho rằng: Khả năng tự lực của trẻ được bộc lộ rõ qua các hành vi và ta sẽ có thể dễ
dàng quan sát được trong khi trẻ đang thực hiện các mối quan hệ người với người,
hay giữa con người với thế giới xung quanh. [28, tr 263]
Một số nhà nghiên cứu như S.L. Rubinstêin, T.I. Galina, A.Đimitrieva gắn
TTL với các quá trình tâm lý như: tư duy, chú ý, trí nhớ. Theo các tác giả TTL gắn
chặt với ý chí và xem nó như một cấu trúc tâm lý phức tạp, nhưng khi đã được hình
thành thì tồn tại như một phẩm chất tính cách bền vững và không thay đổi.
S.L. Rubinstêin nghiên cứu TTL trong sự đi kèm với các nhiệm vụ mà trẻ
được giao cho. Theo ông, khả năng tự lực cũng đi kèm với khả năng tư duy của trẻ,
do đó, cần tạo ra cho trẻ những tình huống mới với độ phức tạp khác nhau để dựa
vào đó trẻ có điều kiện được biết vận dụng, được thực hành các kiến thức, kỹ năng,
8
hình thành kỹ năng, kỹ xảo và cả thói quen tự lực. [28, tr 263]
Trong tác phẩm “Tâm lý học trẻ em” của A.A.Liublinxkaia TTL được hình
thành trong quá trình hoạt động của trẻ. Mức độ phát triển TTL của trẻ được nâng
cao dần cùng với sự phát triển của trẻ, sự tăng thêm các khả năng của trẻ để thực
hiện những hành động chân tay và trí óc càng ngày càng phức tạp hơn. Theo quan
điểm của A.A.Liublinxkaia TTL được hiểu như tính độc lập. Tác giả cho rằng nếu
chưa hình thành được các thói quen thì việc cho trẻ tự lực chỉ dẫn đến các hành
động tự phát, sẽ không đạt kết quả tốt. TTL của trẻ bao giờ cũng là sản phẩm của sự
tuân theo “những yêu cầu” của người lớn và đồng thời là sản phẩm của sáng kiến
riêng của trẻ. Trẻ lĩnh hội các qui tắc ứng xử càng sâu sắc, càng tốt bao nhiêu, hiểu
biết của trẻ càng thấu đáo bấy nhiêu thì khả năng vận dụng chúng một cách sáng tạo
và tự lực vào những hoàn cảnh sống mới và đa dạng càng rộng rãi bấy nhiêu.Sự
nghịch ngợm, tò mò của trẻ là hình thức độc đáo để trẻ thể hiện TTL và khẳng định
bản thân. [20, tr 210]
K.D. Usinxki cũng nghiên cứu TTL của trẻ gắn với lao động, nhưng ông đi
sâu cụ thể vào lao động tự phục vụ trong đời sống hàng ngày của trẻ. Ông cho rằng:
mức độ khả năng tự lực của trẻ phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ của trẻ với lao
động. [28, tr 263]
Nghiên cứu về TTL trong mối quan hệ với lao động T.I. Godina đã xem xét
các hành vi của trẻ trong quá trình lao động tự phục vụ và thấy được mối quan hệ
tích cực đối với lao động phát triển ở mức độ cao khi kết quả lao động mang TTL.
Chính vì vậy, cần phải tạo điều kiện cho trẻ tự lực thực hiện những nhiệm vụ lao
động vừa sức, tự đặt nhiệm vụ và tìm cách thực hiện nhiệm vụ đó. [25, tr 8]
E.I. Radina, R.G. Nhechaeva, L.I. Triômskaia trong các nghiên cứu của mình
đã quan tâm đến sự hứng thú của trẻ và tính tích cực lao động với việc đẩy mạnh sự
phát triển tính tự lập và nguyện vọng tự lực thực hiện nhiệm vụ đến cùng. [25, tr 8]
Xem xét trong hoạt động chơi của trẻ, E.L. Pêtrôva khẳng định: chơi chính là
một hoạt động thực tiễn thể hiện khả năng tự lực của trẻ. Trong hoạt động vui chơi,
trẻ thực sự là chủ thể hoạt động, trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những
9
gì mà mình thích chứ không phải là những gì mà người khác ép buộc. Vì vậy, trong
khi chơi xuất hiện tính tích cực của cá nhân, sự tự nguyện của trẻ. Nhà giáo dục có
thể dựa vào hoạt động vui chơi mà có kế hoạch giáo dục TTL cho theo định hướng
mục tiêu có chủ đích. [28, tr 265]
Ngoài ra, N.K. Cơruxcaia và A.S. Macrenco rất quan tâm đến sự hình thành và
phát triển TTL sáng tạo của trẻ thông qua trò chơi. Trong đó nhấn mạnh trò chơi
phát triển TTL của trẻ nhiều hơn cả so với các dạng hoạt động khác. [9, tr 7]
Vengher nghiên cứu TTL trên cơ sở tác động của nhà giáo dục. Tác giả cho
rằng TTL không tự nhiên mà có. Nó chỉ được tạo nên trong những điều kiện cần
thiết cho việc hình thành TTL dưới sự giúp đỡ của mọi người. Tự lực là sự suy
nghĩ, sự tổ chức hành động và hoạt động không dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài.
[28, tr 265]
Bên cạnh việc xem xét TTL như một bản tính, một nét tính cách của nhân
cách, một số tác giả khác nghiên cứu TTL như một trạng thái của nhân cách
(Galina, Đmitrieva…) T.I. Galin đề cập đến tính tự lực trong hành vi đạo đức. Theo
tác giả, sự phát triển của TTL được hình thành trên cơ sở “ hình thức mới của tự ý
thức”. Tác giả cho rằng hình thành và phát triển TTL được thực hiện thông qua việc
ý thức và đánh giá những hành động của bản thân, quan hệ của bản thân với môi
trường và mọi người xung quanh. [25, tr 7]
Qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy, các nhà Tâm lý học và Giáo dục
học đã khẳng định: TTL ở trẻ không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành và
phát triển thông qua quá trình hoạt động của trẻ đặc biệt là lao động tự phục vụ.
Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng đề cao vai trò của người lớn trong việc hỗ trợ
và giúp đỡ trẻ hình thành và phát triển TTL và đã xem TTL như là nét đặc trưng của
nhân cách, gắn TTL với các quá trình tâm lý, chính sự nghịch nghợm, tò mò của trẻ
và sự tham gia vào hoạt động vui chơi là hình thức và là hoạt động thể hiện rõ rệt
TTL và khả năng tự khẳng định bản thân của trẻ.
Như vậy, cho dù nghiên cứu TTL dưới góc độ nào thì tất cả các tác giả đều
thống nhất ở một điểm chung nhất đó là coi TTL như là một phẩm chất quan trọng
10
của nhân cách, sự thành công trong việc hình thành và phát triển phẩm chất của
nhân cách này phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dục và giúp đỡ của người lớn đối với
trẻ, họ cũng khẳng định muốn hình thành TTL cho trẻ, người lớn phải tạo điều kiện
cho trẻ tự thực hiện những nhiệm vụ lao động vừa sức và phù hợp với trẻ.
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về TTL của trẻ em ở các lứa
tuổi khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thanh Huyền với luận án tiến sĩ: “Các biện pháp giáo dục
tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt tại trường mầm
non”. Tác giả cho rằng chế độ sinh hoạt ở trường mầm non là sự luân phiên các hoạt
động của trẻ trong một ngày với những yêu cầu cụ thể là điều kiện cơ bản giúp trẻ
hình thành tính tự lực.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hồng Thuận: “Một số biện pháp tác động của gia
đình nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi” và luận văn thạc sĩ
“Một số biện pháp tác động của gia đình nhằm phát triển tính tự lực cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi” của Đỗ Thị Hồng Hạnh, đã chứng minh được vai trò của cha mẹ
trong việc giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, cách sử dụng có hiệu quả
các biện pháp giáo dục sẽ góp phần hình thành và phát triển TTL cho trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi nhằm phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Tác giả Nguyễn Hồng Thuận đã
cho rằng: Tính tự lập có nhiều nét tương đồng với tính tự lực. Tuy nhiên, tính tự lực
có biểu hiện xu hướng về khía cạnh hành vi và hoạt động hơn.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân với luận văn thạc sĩ: “Một số biện pháp giáo
dục TTL cho trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động với đồ vật”. Tác giả đã đề xuất và
thực nghiệm có kết quả một số biện pháp giáo dục nhằm phát triển TTL cho trẻ. Tác
giả cũng cho rằng nếu có biệp pháp hướng dẫn trẻ trong hoạt động với đồ vật phù
hợp thì tính tự lực của trẻ sẽ được hình thành và phát triển thuận lợi.
Trong luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu tính tự lực của trẻ 5 tuổi tại trường mầm
non Bé Ngoan, Phường Đa Kao, Quận I, TP.HCM” của Nguyễn Thị Thu Dung đã
cho thấy trẻ 5 tuổi có biểu hiện TTL trong các hoạt động ở trường mầm non nhưng
11
chưa cao, tác giả đã đề xuất và thử nghiệm có kết quả một số biện pháp giáo dục
nhằm phát triển TTL của trẻ 5 tuổi tại trường mầm non Bé Ngoan.
Như vậy, tại Việt Nam việc nghiên cứu TTL của trẻ em lứa tuổi mầm non đã
được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên của các tác giả
mới đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp giáo dục TTL của trẻ ở các lứa tuổi khác
nhau ở gia đình và trong một số các hoạt động ở trường mầm non, chưa nghiên cứu
sâu về TTL của trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
1.2. Những vấn đề lý luận về tính tự lực của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Khái niệm tính tự lực
Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên của Bộ
Giáo Dục – Đào tạo thuộc Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, xuất bản năm
1998 có định nghĩa về TTL như sau: Tự lực là tự sức mình làm lấy, không dựa dẫm
nhờ vả người khác (tự lực làm mọi việc, tinh thần tự lực, tự cường) [7, tr 13]
Từ điển Việt Anh thì giải thích Tự lực (self – reliant) là tự lực cánh sinh, bằng
chính khả năng của mình.
Tương tự như vậy, theo từ điển Anh – Anh “Advaned Learners’ Dictionary –
Oxford”, thì tự lực là dựa vào, tin vào khả năng và sự cố gắng (sự nỗ lực) của chính
bản thân mình. [7, tr 13]
Với những định nghĩa nêu trên cho thấy tự lực có chiều hướng thiên về những
biểu hiện hành vi và hoạt động.
TTL liên quan chặt chẽ tới biểu hiện tính tích cực của cá nhân, ý chí, hành
động, trí tuệ và tình cảm. Muốn phát huy TTL thì con người cần phải có kiến thức,
kỹ năng, tự đặt nhiệm vụ, tự lên kế hoạch, có niềm tin, có khả năng tự điều khiển và
kiểm tra đánh giá bản thân, có sự nỗ lực của ý chí, tính tích cực, tự giác, tính mục
đích và tính kỷ luật.
Về bản chất TTL được hình thành trên cơ sở cá nhân có nhu cầu, khả năng và
tin tưởng vào sức lực của bản thân để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, tự tìm kiếm
cách thức riêng để giải quyết các nhiệm vụ đó. TTL được hình thành trong hoạt
động và thông qua hoạt động của con người với thế giới xung quanh. TTL là một
12
trong những điều kiện quan trọng để nảy sinh tính sáng tạo.
Ngoài ra, một số nhà khoa học còn cho rằng: TTL là một thành phần tổng hợp
quan hệ của con người tới việc thực hiện những trách nhiệm của mình, tới quá trình
hành động, định hướng lên sự không phụ thuộc, tới các hoạt động xã hội và của con
người với nhau. [9, tr 24]
Có thể nói: TTL là một phẩm chất quan trọng của nhân cách được hình thành
trong quá trình hoạt động, thể hiện mối quan hệ của cá nhân với các sự vật, hiện
tượng, với người khác và với bản thân. Nó đặc trưng cho thái độ không phụ thuộc,
sẵn sàng chịu trách nhiệm và niềm tin vào năng lực của mình, thói quen tự giác,
độc lập trong việc đặt ra mục đích, nhiệm vụ và tự điều khiển, kiểm tra bản thân, sử
dụng tối đa các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, có sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực, và ý
chí nhằm đạt mục đích đã định để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội.
[9, tr 24]
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
1.2.2.1. Hoạt động vui chơi
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Chơi là cuộc sống của trẻ.
Chơi là một hoạt động cần thiết cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, nhưng đối với trẻ
thơ thì chơi chính là cuộc sống thực của chúng. Không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ
không phải là sống. Đặc biệt ở tuổi mẫu giáo, chơi lại là hoạt động chủ đạo đối với
sự phát triển của trẻ. Nhiều trò chơi xuất hiện ở lứa tuổi này, như trò chơi đóng vai
theo chủ đề, trò chơi xây dựng, trò chơi học tập, trò chơi vận động, trò chơi đóng
kịch…trong đó trò chơi đóng vai theo chủ đề giữ vị trí trung tâm. Vì trò chơi này
giúp giải quyết một mâu thuẫn quan trọng trong sự phát triển của trẻ lên ba, khi ý
thức về bản thân đang được hình thành. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là nguyện
vọng của trẻ được sống và làm việc như những người lớn xung quanh, một bên là
khả năng còn quá non nớt của chúng. Cùng với sự phát triển của trò chơi này kéo
theo sự ra đời của nhiều loại trò chơi khác, ngày càng phong phú và phức tạp hơn,
nhu cầu được chơi cũng ngày càng bức bách hơn, chơi trở thành hoạt động chủ đạo,
trở thành cuộc sống của trẻ. [24], [35]
13
* Đặc điểm của hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo
Nói tới hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo, chủ yếu là nói tới trò chơi đóng
vai theo chủ đề, vì đó là loại trò chơi đặc trưng nhất của trẻ mẫu giáo.
Khác với học tập và lao động, vui chơi trước hết là một dạng hoạt động
không mang tính chất bắt buộc. Bởi vì vui chơi không phải là hoạt động tạo ra sản
phẩm và hành động chơi không buộc phải tuân theo một phương thức chặt chẽ. Sở
dĩ trẻ tham gia nhiệt tình vào trò chơi đó là do chính sức hấp dẫn của bản thân trò
chơi, chứ không có một sự ràng buộc nào khác, kể cả kết quả của sự vui chơi đó.
Trong học tập và lao động, cái làm cho người hoạt động quan tâm là kết quả
của những hoạt động đó: học được những kiến thức, kỹ năng gì và làm ra những sản
phẩm kết quả của việc chơi. Như vậy, có nghĩa là động cơ của hoạt động vui chơi
nằm ngay trong quá trình hoạt động chứ không phải nằm ở kết quả. Chính vì vậy,
trò chơi mang tính tự nguyện rất cao. Trẻ thích chơi trò chơi nào thì chơi một cách
say mê trò chơi ấy. Có vui thì mới chơi và đã chơi thì phải vui, đó chính là tính chất
đặc biệt của hoạt động vui chơi. Mọi sự bắt buộc hoặc áp đặt đều dẫn đến sự phá
hoại trò chơi. Trò chơi mà không mang lại niềm vui sướng thì không còn là trò chơi
nữa. [24], [35], [36]
Trò chơi là một dạng hoạt động mang tính tự lực của trẻ. Hơn bất cứ hoạt
động nào, trong trò chơi trẻ mẫu giáo biểu hiện rõ nhất ý thức làm chủ. Trẻ hoạt
động hết mình, tích cực, độc lập, chủ động. Trong hoạt động vui chơi, người lớn
không thể áp đặt hay chơi hộ trẻ, chỉ có thể gợi ý hướng dẫn mà thôi. Trẻ em cũng
chỉ thực hiện những điều gợi ý của người lớn khi thấy phù hợp với nhu cầu và hứng
thú của mình. Tác dụng giáo dục của người lớn với trẻ trong hoạt động vui chơi là ở
chỗ người lớn biến những yêu cầu giáo dục thành nội dung của hoạt động vui chơi
và hướng dẫn tổ chức cho trẻ vui chơi sao cho vừa thỏa mãn những nhu cầu, hứng
thú của trẻ, vừa đạt được những yêu cầu giáo dục. Vui chơi càng mang tính chất tự
nguyện bao nhiêu thì càng phát huy ở trẻ tính tích cực, chủ động, độc lập và nảy
sinh nhiều sáng kiến bấy nhiêu.
14
Vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề là một
hoạt động đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các thành viên trong trò chơi với nhau.
Vì trò chơi đối với trẻ mẫu giáo bao giờ cũng phản ánh một mặt nào đó của xã hội
người lớn xung quanh, mà hoạt động của người lớn trong xã hội lại không mang
tính chất riêng lẻ đơn độc, hoạt động của một người bao giờ cũng có liên quan đến
hoạt động của nhiều người khác, nghĩa là hoạt động của con người bao giờ cũng
mang tính xã hội. Để tiến hành một trò chơi nhằm mô phỏng lại đời sống xã hội,
buộc phải có nhiều trẻ cùng tham gia, cùng hoạt động với nhau, nghĩa là phải có bạn
bè cùng chơi. Tính hợp tác là một nét phát triển mới, một nét tiêu biểu trong hoạt
động vui chơi của trẻ mẫu giáo.
Trò chơi của trẻ mẫu giáo mang tính ký hiệu – tượng trưng. Trong khi chơi,
mỗi đứa trẻ đều tự nhận cho mình một vai nào đó và thực hiện những hành động
của vai chơi, nhưng đây chỉ là hành động ngụ ý (giả vờ) mà thôi.
Việc ướm thử mình vào một nhân vật khác và hành động ngụ ý vào đồ vật
thay thế, tất cả những điều đó đều là giả vờ nhưng lại mang ý nghĩa rất thực, vì nó
phản ánh một điều có thực đã xảy ra như vậy trong cuộc sống thực. Đó là sự ra đời
một chức năng mới của ý thức: chức năng ký hiệu – tượng trưng.
Trò chơi có sự tham gia bắt buộc của tưởng tượng. Hành động chơi, thao tác
chơi là sự phản ánh thế giới khách quan. Nội dung của trò chơi là sự phản ánh hiện
thực, thao tác chơi của trẻ được qui định bởi đồ vật, đồ chơi có trong tay. Trong trò
chơi, trẻ có thêm những hiểu biết về thế giới xung quanh. Tưởng tượng trở thành
cần thiết và được xuất hiện trong điều kiện của hành động chơi, khi trẻ không có đồ
chơi thật, thích hợp cho hành động và trẻ phải dùng vật thay thế. Điều này có thể
thấy được rằng trẻ chỉ tưởng tượng khi tham gia vào tình huống chơi, còn khi đang
đứng ngoài trò chơi, quan sát các bạn chơi thì trẻ không tưởng tượng. [24], [35]
* Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi đóng vai theo chủ đề có cấu trúc tương đối phức tạp. Nó bao gồm
chủ đề chơi, nội dung chơi, vai chơi, hành động chơi, mối quan hệ của trẻ trong trò
chơi, đồ chơi, hoàn cảnh chơi…
15
– Chủ đề chơi và nội dung chơi
+ Trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ mẫu giáo phản ánh cuộc
sống xung quanh với những mảng hiện thực phong phú. Các mảng hiện thực
được phản ánh vào trò chơi được coi là chủ đề của trò chơi.
Trẻ càng tiếp xúc rộng rãi với đời sống bao nhiêu thì chủ đề của trò chơi
càng phong phú bấy nhiêu, có thể kể đến chủ đề gia đình, chủ đề bệnh viện, chủ đề
bán hàng, chủ đề bộ đội, chủ đề dạy học… Cùng với sự phát triển của trẻ, chủ đề
chơi không chỉ tăng theo số lượng mà còn được phức tạp hóa dần và được mở rộng.
Ví dụ: cùng chủ đề chơi là sinh hoạt gia đình, nhưng ở trẻ mẫu giáo bé thể hiện vai
chơi khác so với trẻ mẫu giáo lớn.
+ Nội dung chơi là những hoạt động của người lớn mà đứa trẻ nhận thức
được và phản ánh vào trò chơi của mình. Đó là những hành động của người lớn với
các đồ vật, những mối quan hệ giữa họ với nhau, những yếu tố đạo đức, thẩm
mỹ…Việc tái tạo lại những hành động ấy trở thành nội dung cơ bản trong trò chơi
của trẻ mẫu giáo.
– Vai chơi và hành động chơi
+ Vai chơi là một yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Trẻ đóng vai có
nghĩa là tái tạo lại hành động của người lớn với các đồ vật trong những
mốiquan hệ nhất định với những người xung quanh. Trong vai chơi, trẻ nhận
làm một chức năng xã hội của một người nào đó, thường là chức năng mang
tính chất nghề nghiệp như trẻ đóng vai làm người lớn, làm cô giáo, làm bác sĩ, làm
người bán hàng… Đóng vai là con đường giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống của
người xung quanh.
+ Muốn đóng một vai nào đó trẻ phải biết thực hiện hành động của vai
đó. Những hành động này xuất phát từ hành động thực tế mà trẻ trông thấy trong
đời sống hiện thực hay được nghe kể lại như trẻ vào vai bác sĩ thì phải biết khám
bệnh, trẻ đóng vai cô giáo thì phải biết giảng bài… Những thao tác của hành động
phụ thuộc vào đồ chơi của trẻ. Do đó cả hành động chơi và thao tác chơi phải phù
hợp với điều kiện thực tế. Vai trong trò chơi qui định hành động của trẻ đối với đồ
16
vật và cả hành động của trẻ đối với bạn cùng chơi. Những hành động của trẻ chỉ là
những hành động mô phỏng, nó không hoàn toàn giống như hành động của
người lớn. Do đó hành động chơi không đòi hỏi phải có thao tác đúng kỹ
thuật, nó mang tính khái quát và tính ước lệ cao. [24], [30], [35], [36]
– Những mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò chơi
Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề có hai mối quan hệ qua lại giữa những
trẻ em cùng tham gia trò chơi: quan hệ chơi và quan hệ thực.
+ Những quan hệ chơi: Đó là những quan hệ qua lại của các vai trong trò
chơi theo một chủ đề nhất định, mô phỏng mối quan hệ của người lớn trong xã hội.
Đó là những quan hệ mà trẻ quan tâm và trở thành đối tượng trong hành động của
chúng, như quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân, quan hệ giữa người mua hàng và
người bán hàng, quan hệ giữa cha mẹ và các con …
+ Những quan hệ thực: Đó là những quan hệ qua lại giữa những trẻ là những
người cùng tham gia trò chơi, những người bạn cùng thực hiện một công việc
chung. Trẻ tập hợp nhau thành nhóm để bàn bạc với nhau về chủ đề chơi, việc phân
vai, thỏa thuận về luật chơi và giải quyết các vấn đề xảy ra trong quá trình chơi.
Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề các quan hệ xã hội được bộc lộ ra rõ rệt. Việc
thực hiện hành động của vai chơi là phải tạo ra các mối quan hệ với các vai khác
nhau. Sức sống của trò chơi đóng vai theo chủ đề là ở chỗ nó tạo ra được mối quan
hệ giữa các vai. Đó chính là bản chất xã hội của trò chơi. Những mối quan hệ xã hội
được mô phỏng vào trò chơi có một điểm đáng lưu ý là nó làm nảy sinh luật lệ hành
động của các vai buộc phải tuân theo. Như vậy luật lệ hành động của các vai được
nảy sinh từ những mối quan hệ được xác lập giữa những trẻ em tham gia vào trò
chơi.
– Đồ chơi và hoàn cảnh chơi
Đồ chơi là phương tiện vật chất dùng trong khi chơi nó không mang ý nghĩa
đời sống hàng ngày. Trong đồ chơi thể hiện tính chất điển hình của đồ vật. Chính
hình dáng tổng quát của đồ chơi giúp trẻ có thể tái tạo và thể hiện những hành động
tương xứng đối với đồ vật ấy. Có 2 loại đồ chơi: