BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thanh Thương
KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
MẦM NON TẠI HUYỆN TÂN PHÚ
TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thanh Thương
KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
MẦM NON TẠI HUYỆN TÂN PHÚ
TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số : 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Công trình nghiên cứu này là do chính tôi thực hiện. Tôi cam đoan nội dung
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và chưa hề được công
bố để bảo vệ một học vị nào.
Học viên cao học
NGUYỄN THỊ THANH THƯƠNG
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn thạc sĩ này, không thể không nhắc đến sự đóng
góp to lớn của các lực lượng giáo dục.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
TP.HCM, quý Thầy Cô Phòng Sau đại học và Quý Thầy Cô trong khoa Tâm lí học
đã giảng dạy và hướng dẫn tôi một cách tận tình trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và bảo vệ luận văn tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Cô Trần Thị Quốc
Minh, người đã luôn tận tình thấu hiểu, hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu và Giáo viên của Trường Mầm non
Phú An và Trường Mầm non Minh Khai tại huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai đã hết lòng
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình làm khảo sát.
Kế đến, xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô trong hội đồng chấm luận văn
trong việc xem xét và đóng góp xây dựng nhằm giúp luận văn hoàn thiện.
Cuối cùng, tôi rất sung sướng khi gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
và những người thân bên cạnh đã luôn ủng hộ, chia sẻ và động viên tôi trong suốt quá
trình từ khi bắt đầu học tập cho đến khi hoàn thành chương trình cao học.
Tp.HCM, tháng 09 năm 2018
Học viên cao học
NGUYỄN THỊ THANH THƯƠNG
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………………….. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI …………………………………………………………….. 6
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ ………………………….. 7
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ ở
nước ngoài ……………………………………………………………………………………… 7
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ ở
Việt Nam ……………………………………………………………………………………… 11
1.2. Cơ sở lý luận về kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi …………………… 18
1.2.1. Kĩ năng sống của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
………………………………………….. 18
1.2.2. Kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi …………………………………. 27
Tiểu kết chương 1 ……………………………………………………………………………………… 44
Chương 2. THỰC TRẠNG KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON TẠI
HUYỆN TÂN PHÚ TỈNH ĐỒNG NAI
……………………………………. 46
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng …………………………………………………………………….. 46
2.1.1. Mục tiêu nghiên cứu ………………………………………………………………………. 46
2.1.2. Nội dung nghiên cứu ……………………………………………………………………… 46
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………… 46
2.1.4. Vài nét về cơ sở nghiên cứu ……………………………………………………………. 51
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng ……………………………………………………………………… 52
2.2.1. Thực trạng hình thành KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ………………… 52
2.2.2. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến KNTPV của trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi ………………………………………………………………………………………. 86
2.2.3. Nguyên nhân thực trạng KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ……………… 88
2.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi
………………………………………………………………………………………………………. 91
2.3.1. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi ………………………………………………………………………………………. 91
2.3.2. Khảo sát các giải pháp
……………………………………………………………………. 99
Tiểu kết chương 2 ……………………………………………………………………………………. 103
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM …………………………………………………. 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………………………… 108
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB Điểm trung bình
GVMN
Giáo viên mầm non
KNS
Kĩ năng sống
KNTPV
Kĩ năng tự phục vụ
MNMK
Mầm non Minh Khai
MNPA
Mầm non Phú An
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng mô tả mức độ thường xuyên KNTPV của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi
……………………………………………………………………………….. 52
Bảng 2.2. So sánh mức độ thực hiện thường xuyên KNTPV của 2 trường
mầm non
……………………………………………………………………….. 56
Bảng 2.3. So sánh mức độ thường xuyên KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi giữa 2 giới tính nam và nữ ………………………………………… 60
Bảng 2.4. Bảng mô tả kết quả quan sát mức độ thành thạo KNTPV ……. 64
Bảng 2.5. Bảng kết quả đánh giá của Phụ Huynh mức độ thành thạo
KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
………………………………….. 67
Bảng 2.6. So sánh mức độ thành thạo KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
giữa ở trường mầm non và ở nhà ……………………………………… 71
Bảng 2.7. So sánh mức độ thành thạo KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
giữa ở trường MNPA và trường MNMK
…………………………… 75
Bảng 2.8. So sánh sự khác biệt về mức độ thực hiện thành thạo KNTPV
của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi giữa nam và nữ ……………………….. 79
Bảng 2.9. Tương quan giữa mức độ thường xuyên và mức độ thành thạo
đối với KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ………………………. 83
Bảng 2.10. Thực trạng mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến KNTPV của trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi
…………………………………………………………. 86
Bảng 2.11. Nguyên nhân thực trạng KNTPV của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
. 89
Bảng 2.12. Mô tả mức độ cần thiết của các giải pháp
………………………….. 99
Bảng 2.13. Mô tả mức độ khả thi của giải pháp
………………………………… 101
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhà giáo dục Maria Montessori từng nói: “Trong mỗi đứa trẻ đều có những tài
năng tiềm ẩn. Sự chuẩn bị kĩ càng từ lúc đầu đời chính là chìa khóa thành công cho
tương lai mỗi cháu” (Trương Thị Hoa Bích Dung, 2012). Nối tiếp ý nghĩa đó, mục
tiêu của Giáo dục Mầm non đề cập “Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào
lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và
phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi
dậy và phát huy tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp
học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời” (Chương trình Giáo dục Mầm non, 2016).
Hơn nữa, Bộ Chuẩn Phát Triển Trẻ Em 5 tuổi đã quy định rõ về những điều
mong đợi ở các chuẩn vệ sinh, dinh dưỡng và an toàn cá nhân của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010). Cụ thể hơn, mục tiêu của nội dung giáo giáo
dục trẻ mẫu giáo về dinh dưỡng và sức khỏe: “Nhận biết một số món ăn, thực phẩm
thông thường và lợi ích của chúng đối với sức khỏe; thực hiện được một số việc tự
phục vụ; có hành vi và thói quen tốt trong sinh hoạt và giữ gìn sức khỏe; biết một số
nguy cơ không an toàn và phòng tránh” (Chương trình Giáo dục Mầm non, 2016). Từ
những đề cập trên, cho thấy rằng các lực lượng giáo dục đã có sự quan tâm sâu sắc
đến việc phát triển toàn diện của trẻ mẫu giáo. Từ việc phát triển những tư chất của
nhân cách đến việc phát triển những kĩ năng sống cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển một tâm hồn lành mạnh bên trong một cơ thể khỏe mạnh. Dù tiếp cận vấn
đề dưới nhiều góc độ không giống nhau nhưng các tác giả đều đưa ra quan điểm giống
nhau, đó là lứa tuổi mầm non là độ tuổi vô cùng quan trọng để có thể lĩnh hội và thực
hành các kĩ năng sống cần thiết trong đó có kĩ năng tự phục vụ.
Việc giáo dục trẻ mầm non biết cách tự phục vụ cho bản thân không chỉ tạo điều
kiện để giúp trẻ dễ dàng hòa đồng với bạn bè, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với
những người xung quanh và tự tin trong cuộc sống, mà còn trang bị cho trẻ hệ thống
những kiến thức cần thiết giúp cho trẻ có cái nhìn về tầm quan trọng của việc phải tự
biết giá trị chăm sóc, giá trị bảo vệ sức khỏe cho mình và thực hành giá trị ấy trong
2
cuộc sống hằng ngày – đây là yếu tố quan trọng giúp trẻ tồn tại và trưởng thành. Kĩ
năng tự phục của trẻ không tự nhiên mà có, cũng không thể tự phát triển mà kĩ năng
tự phục được hình hình thành trong những hoàn cảnh cụ thể, dưới sự hướng dẫn và
củng cố của người lớn. Vì vậy, người lớn cần giúp trẻ trong việc hình thành và phát
triển kĩ năng tự phục vụ. Tài liệu tập huấn Module 39 ra đời đã giúp cho đội ngũ Giáo
Viên nắm bắt được tằm quan trọng và cách thức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm
non. Tiếp theo là sách Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, trong đó tác
giả Lê Bích Ngọc đã đề cập đến “nhóm kĩ năng tự phục bao gồm: kĩ năng ăn uống,
kĩ năng vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự bảo vệ sức khỏe, kĩ năng tự phòng chống các tai
nạn thông thường”. Đây được coi như là những tài liệu chính thống đầu tiên giúp cho
việc giáo dục kĩ năng sống của trẻ mầm non được hệ thống và hiệu quả hơn (Lê Bích
Ngọc, 2010).
Kĩ năng tự phục vụ như những nhịp cầu giúp trẻ biến những tri thức của nhân
loại thành giá trị, thái độ, hành vi đúng mực và thói quen lành mạnh cho riêng mình.
Kĩ năng tự phục vụ giúp trẻ thích ứng và hòa nhập với cuộc sống xung quanh, giúp
trẻ tự chăm sóc và bảo vệ bản thân, giúp bản thân tránh khỏi những nguy hiểm. Kĩ
năng tự phục vụ giúp trẻ hình thành những những nét tính cách đầu tiên, làm nền tảng
cho sự hình thành nhân cách của trẻ. Thiếu kĩ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến việc trẻ dễ
thụ động, ỷ lại, dựa dẫm vào người khác, thiếu tự tin, trẻ rất khó giải quyết các tình
huống trong cuộc sống hằng ngày đặc biệt là những nguy hiểm luôn rình rập xung
quanh trẻ. Giai đoạn trẻ 5 – 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của
mỗi đứa trẻ. Đây là giai đoạn trẻ chuẩn bị bước vào trường phổ thông, chính thức trở
thành một học sinh thực thụ, đó là “sự chuyển qua một lối sống mới, với những điều
kiện hoạt động mới, chuyển qua một địa vị mới trong xã hội, chuyển qua những quan
hệ mới với người lớn và bạn bè cùng tuổi” (Nguyễn Ánh Tuyết, 2006). Chính vì thế,
việc chuẩn bị tốt những kĩ năng sống nói chung và kĩ năng tự phục vụ nói riêng sẽ
giúp trẻ chuẩn bị tâm lí sẵn sàng vào lớp một.
Có thể kể đến vài tác giả nghiên cứu về vấn đề kĩ năng sống như: tác giả Huỳnh
Văn Sơn viết quyển sách Nhập môn kĩ năng sống, tác giả Nguyễn Thanh Bình với
3
Giáo trình chuyên đề kĩ năng sống. Những công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng
còn hạn chế. Chẳng hạn như: tác giả Mai Hiền Lê khảo sát về Kĩ năng sống của trẻ
mẫu giáo lớn trường Mầm non Thực Hành TP. Hồ Chí Minh; tác giả Cao Văn Quang
khảo sát về Kĩ năng sống của trẻ 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non tại TP. Hồ Chí
Minh; tác giả Đỗ Thị Bắc khảo sát về Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo
bé ở trường mầm non thành phố Thái Nguyên và một vài đề tài luận văn thạc sĩ tâm
lý khác nghiên cứu về kĩ năng biểu hiện tình cảm, kĩ năng thể hiện cảm xúc. Tuy đã
bước đầu nghiên cứu về kĩ năng sống của trẻ mầm non nhưng các đề tài chỉ tập trung
trong phạm vi ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc thành phố lớn. Đặc biệt là việc nghiên
cứu về kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở những vùng sâu vùng quê
đang bị bỏ ngõ.
Tân Phú là một huyện miền núi của tỉnh Đồng Nai, là một trong những huyện
vùng sâu vùng xa nhất của tỉnh vì thế nên điều kiện kinh tế, xã hội còn gặp nhiều khó
khăn. Huyện Tân Phú có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, người dân ở
đây rất vất vả vì phải mưu sinh hằng ngày nên ít có thời gian chăm sóc nhiều đến trẻ
và vì thế trẻ cần được trang bị kĩ năng tự phục vụ cho bản thân. Đây là một trong
những yếu tố giúp trẻ thích nghi với cuộc sống và đặc biệt là giúp hình thành những
nét tính cách tích cực, những thói quen lành mạnh đầu tiên của cuộc đời.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi ở một số trường mầm non tại huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai” được tiến
hành nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát thực trạng kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở một số
trường mầm non tại huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai. Từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi duy trì và nâng cao kĩ năng tự phục vụ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tổng hợp, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến Kĩ năng tự
phục vụ của trẻ 5 – 6 tuổi.
4
– Khảo sát thực trạng Kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở một số
trường mầm non tại huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, đề
xuất một số giải pháp nhằm giúp duy trì và nâng cao kĩ năng tự phục vụ.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non tại
huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu chính: trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
Khách thể nghiên cứu bổ trợ: Giáo Viên giảng dạy lớp 5 – 6 tuổi, Phụ Huynh
của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non tại
huyện Tân Phú Tỉnh Đồng Nai đã thực hiện thường xuyên và thành thạo ở mức độ
khá tốt. Có sự khác biệt về kĩ năng tự phục vụ giữa trẻ em sống ở thị trấn với trẻ em
sống ở vùng sâu vùng xa, giữa nam và nữ. Có những nhóm nguyên nhân khác nhau
liên quan đến thực trạng kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo trong đó nhóm nguyên
nhân khách quan chiếm ưu thế.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: chỉ nghiên cứu 15 kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi: kĩ năng cởi giày dép; kĩ năng xúc ăn; kĩ năng uống nước khi khát; kĩ năng
ăn nhiều loại thức ăn được chế biến khác nhau; kĩ năng rửa mặt; kĩ năng đánh răng;
kĩ năng rửa tay bằng xà phòng; kĩ năng cởi quần áo; kĩ năng mặc quần áo; kĩ năng
gấp quần áo gọn gàng; kĩ năng đi vệ sinh đúng nơi quy định; kĩ năng thực hiện giờ
ngủ; kĩ năng dọn dẹp đồ dùng, đồ chơi sau khi chơi và học; kĩ năng giữ đầu tóc, quần
áo gọn gàng; kĩ năng đi giày dép.
Về địa bàn nghiên cứu: nghiên cứu khoảng 100 trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở 2
trường mầm non tại huyện Tân Phú: Trường mầm non xã Phú An – trường thuộc vùng
sâu vùng xa; Trường mầm non Minh Khai – trường thuộc thị trấn.
7. Phương pháp nghiên cứu
5
Đề tài đựơc tiến hành thông qua việc phối hợp đồng bộ một số phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý
luận từ sách giáo khoa, sách chuyên ngành, luận văn, luận án, các tạp chí… có liên
quan đến kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp phỏng vấn
– Mục đích: Nhằm thu thập thông tin của Giáo Viên về mức độ thực hiện các kĩ
năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở địa phương; tìm hiểu vai trò của các kĩ
năng tự phục vụ đối với trẻ; những nguyên nhân của thực trạng kĩ năng tự phục vụ;
các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự phục vụ của trẻ; các giải pháp để duy trì và nâng
cao kĩ năng tự phục của trẻ.
– Cách thực hiện: Tiến hành phỏng vấn Giáo Viên để tìm hiểu những thông tin
liên quan đến thực trạng vấn đề. Phỏng vấn 8 giáo viên đang phụ trách lớp mẫu giáo
5 – 6 tuổi.( Phụ lục 1)
7.2.3. Phương pháp quan sát
– Mục đích: Tiến hành quan sát các kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi thông qua hoạt động hằng ngày ở trường mầm non. Qua đó, có thể nhận định rõ
hơn về thực trạng kĩ năng tự phục vụ của trẻ.
– Cách thực hiện: Quá trình quan sát diễn ra qua 3 giai đoạn: giai đoạn 1 là thiết
lập khung các phạm trù quan sát, giai đoạn 2 là thu thập dữ kiện, giai đoạn 3 là định
lượng hóa. Xây dựng bảng quan sát dựa trên các tài liệu chính là: Chuẩn phát triển
trẻ em 5 tuổi của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Module 39 Giáo Dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo của tác giả Lê Bích Ngọc, sách Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi của
tác giả Lê Bích Ngọc, Chương trình Giáo dục Mầm non chỉnh sửa bổ sung năm 2016,
Kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo ở trường.
Bảng quan sát các kĩ năng tự phục vụ của trẻ gồm 2 phần: Phần 1 là phần tần
số thể hiện các kĩ năng của trẻ trong 1 tuần. Các kĩ năng tương ứng với 3 mức độ:
thường xuyên (trên 5 lần/1 tuần), thỉnh thoảng ( trên 3 lần/1 tuần), hiếm khi (dưới 2
6
lần/1 tuần). Phần 2 là phần mức độ thành thạo các kĩ năng tự phục vụ : kĩ năng tự
phục vụ tương ứng với 5 mức độ: 1 (kém), 2 (trung bình), 3 (khá), 4 (tốt), 5 (rất tốt).
(Phụ lục 2)
7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
– Mục đích: sử dụng bảng hỏi dành cho phụ huynh có con em thuộc nhóm khách
thể nghiên cứu. Bảng hỏi nhằm tìm hiểu trẻ thực hiện kĩ năng tự phục vụ đạt ở mức
độ nào.
– Cách thực hiện: sau khi chọn ra được nhóm khách thể nghiên cứu, dùng bảng
hỏi để tìm ra kết quả của kĩ năng tư phục vụ theo nhận định của phụ huynh. Đây là
yếu tố quan trọng để kết hợp với việc quan sát kĩ năng tự phục vụ của trẻ giúp đưa ra
kết luận đúng đắn hơn. (Phụ lục 6)
7.3.Phương pháp thống kê toán học
– Mục đích: xử lý những thông tin thu thập được theo phương thức định lượng.
– Cách thực hiện:
+ Các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu sẽ được xử lý bằng phần
mềm SPSS 24.0
+ Các thông số thống kê nghiên cứu mà đề tài thực hiện: tần số, tính tỉ lệ phần
trăm, tính điểm trung bình, sự khác biệt giữa 2 biến, tương quan.
* Trong các phương pháp nghiên cứu trên thì phương pháp quan sát là phương
pháp chủ đạo của đề tài, các phương pháp còn lại là bổ trợ. (Phụ lục 10)
8. Những đóng góp mới của luận văn
Đề tài đã đánh giá được thực trạng kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi ở một số trường mầm non tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Thực trạng các kĩ
năng tự phục vụ bao gồm: nội dung, mức độ thường xuyên, mức độ thành thạo,
nguyên nhân của thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng… đến kĩ năng tự phục vụ của trẻ
mẫu giáo.
Trên cơ sở đó, đề tài đã đề ra một số giải pháp nhằm giúp cho trẻ duy trì và nâng
cao có hiệu quả kĩ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm
non tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ
7
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ ở nước
ngoài
Trong xu hướng hiện đại, giáo dục không chỉ hướng đến mục tiêu tạo ra con
người nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội mà giáo dục còn hướng đến
mục tiêu phát triển đầy đủ các phẩm chất của mỗi cá nhân để giúp họ xây dựng một
cuộc sống lành mạnh, ý nghĩa, hạnh phúc và cống hiến hết mình cho tập thể.
Các nước Phương Tây đã giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên bằng cách
vận dụng tổng hợp sáng tạo nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau của các tổ chức
UNICEF và WHO. Họ đã giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh của mình
theo định hướng lồng ghép và tích hợp vào từng môn học, vào từng tiết học một cách
có kế hoạch. Nội dung định hướng giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên bao
gồm: nhóm kĩ năng thuộc về tâm lý cá nhân, nhóm kĩ năng quan hệ với người khác,
kĩ năng cộng đồng và kĩ năng làm việc (Phan Xuân Trường, 2010).
Năm 1989, bộ lao động Mỹ đã thành lập Ủy ban thư kí về rèn luyện các kĩ năng
cần thiết (The secretary’s comission on achieving necessary skills – SCANS). Họ cho
rằng, muốn cải thiện được hiệu quả trong lao động thì phải trang bị những kĩ năng
cần thiết cho người lao động vì điều đó giúp họ thích ứng tốt hơn và lao động hiệu
quả hơn (Nguyễn Hữu Long, 2016).
Tại Úc (1990 – 2002), hội đồng kinh doanh Úc (The businet councli of australia
– BCA), phòng thương mại và công nghiệp Úc (The Australian chambetof comecre
an industry – ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Khoa Học Úc (The
department of edutralian – scien and training – DEST) và Hội Đồng Giáo Dục Quốc
Gia Úc (The australian nationnal training authority – ANTA) đã xuất bản tài liệu “Kĩ
năng hành nghề cho tương lai”. Quyển sách đề cập đến những kỹ năng và kiến thức
mà người lao động cần phải có, trong đó liên quan đến nhiều KNS. Kĩ năng hành
nghề là các kĩ năng cần thiết không chỉ để có thể làm việc mà còn để tiến bộ trong tổ
chức (Cao Văn Quang, 2012).
8
Tác giả Gracious Thomas viết quyển sách “Life skill Education and
Currucylum” (Giáo trình và giáo dục kĩ năng sống), tác phẩm nhấn mạnh vai trò của
Giáo Viên trong việc giáo dục KNS dựa vào hệ thống giá trị cho công tác phòng
chống nhiễm HIV/AIDS. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã xây dựng một chương trình
có thể điều chỉnh bởi một hệ thống giáo dục trong nước (Huỳnh Văn Sơn, 2012).
Sách “The indispensable book of practial life skills” (Quyển sách độc lập về kĩ
năng sống thực tế) của tác giả Nic Compton đã hướng dẫn hỗ trợ giảng viên, các bậc
phụ huynh nhằm giúp xử lý tất cả tình huống khó trong cuộc sống hằng ngày. Tác giả
cung cấp những cách thức, từng bước hướng dẫn cụ thể để giải quyết các vấn đề làm
bối rối, làm choáng ngợp trước những thách thức trong cuộc sống ở mọi lứa tuổi một
cách dễ dàng (Huỳnh Văn Sơn, 2012).
Nội dung bao gồm 10 điều lưu ý khi dạy con em được tác giả Deborah Carroll
đề cập trong quyển sách “Teaching your children life skills” (Dạy kĩ năng sống cho
con bạn), đó chính là: làm thế nào để công việc, các chuyến đi mua sắm, các kì nghỉ
và các tình huống khác trong cuộc sống trở thành cơ hội để trẻ có thể học hỏi và hình
thành những kĩ năng quan trọng. Điều này có thể giúp trẻ tìm ra cách và thực hành
các kĩ năng, giúp trẻ biết cách cư xử với những người xung quanh và biết cách trân
trọng các giá trị tốt đẹp mà không cần phải giảng dạy lý thuyết. Bên cạnh đó, quyển
sách hướng dẫn trẻ phát triển lòng tự trọng và kĩ năng sống lâu dài thông qua công
việc hằng ngày (Huỳnh Văn Sơn, 2012).
Sách “The practical life skills workbook” (Sách bài tập kĩ năng sống thực tế)
của tác giả Ester A. Leutenberg, John J. Liptak cho rằng, chỉ số thông minh của một
người có kĩ năng sống bao gồm cả một hệ thống về thể chất, tinh thần, sự nghiệp, tình
cảm, xã hội và trí thông minh. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng kĩ năng sống là những
kĩ năng vô giá của con người được sử dụng hằng ngày, nó cho phép con người tạo ra
cuộc sống mà họ mong muốn. Chính vì thế mà tác giả khẳng định rằng kĩ năng sống
quan trọng hơn chỉ số thông minh (Huỳnh Văn Sơn, 2012).
Tại Malaysia, giáo dục KNS được coi như là một môn học ở trường tiểu học và
trung học. Đối với trường tiểu học, mục tiêu của môn giáo dục kĩ năng sống là cung
9
cấp cho người học những kĩ năng cần thiết cơ bản để người học có thể thực hiện các
nhiệm vụ trong cuộc sống. Còn đối với trường trung học, mục tiêu giáo dục kĩ năng
sống là trang bị những kĩ năng để góp phần vào việc xây dựng một con người độc
lập, có khả năng tự chủ, có khả năng giao tiếp với những người xung quanh và có sự
tự tin sáng tạo trong học tập và trong cuộc sống hằng ngày (Cao Văn Quang, 2012).
Ở Thái Lan, họ quan niệm rằng KNS chính là những thuộc tính hay những năng
lực tâm lí giúp cá nhân có khả năng đương đầu và có năng lực giải quyết với những
khó khăn trong cuộc sống nhằm giúp cá nhân sống an toàn và hạnh phúc. Chính vì
thế, họ kết luận rằng: con người muốn trưởng thành và thích ứng với cuộc sống thì
điều cần thiết là phải hình thành cho con người những KNS cơ bản, đáp ứng nhu cầu
hằng ngày và cho sự phát triển của cá nhân. Những KNS cơ bản và cần phải có đó là:
kĩ năng ra quyết định, giải quyết mâu thuẫn, sáng tạo phân tích đánh giá, kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng liên nhân cách, ra quyết định, làm chủ được cú sốc, đồng cảm và thực
hành (Cao Văn Quang, 2012).
KNS ở Inđônêxia được nghiên cứu như một khoa học giáo dục và được các tổ
chức Phi Chính Phủ và những trung tâm chuyên biệt đầu tư một cách nổi bậc. Họ coi
kĩ năng sống như là kiến thức, kĩ năng và thái độ giúp người học sống một cách độc
lập. Lợi ích của giáo dục KNS mang lại là: nâng cao cơ hội có việc làm cho người
lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghèo và người có hoàn cảnh khó
khăn, tạo ra chất lượng giáo dục cho người nghèo (Cao Văn Quang, 2012).
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, trên thế giới đã có một số công trình
nghiên cứu về KNS của trẻ. Những công trình này đề cập đến các kĩ năng cần có ở
trẻ, các cách thức để hình thành và phát triển những kĩ năng cho trẻ, đó cũng là những
tài liệu, những biện pháp cụ thể hướng dẫn một cách tỉ mỹ làm mẫu cho các Giáo
Viên và phụ huynh thực hiện việc lồng ghép dạy kĩ năng sống trong hoạt động hằng
ngày nhằm giúp trẻ phát huy tối đa những tiềm năng của bản thân.
Ở Nhật, Cha Mẹ rất quan tâm đến việc giáo dục KNS cho con mình ngay từ
những ngày đầu đời, đó là những giá trị đạo đức của con người và cũng là những
năng lực cần thiết giúp cho trẻ phát triển. Cha mẹ ở Nhật thường trang bị cho con
10
mình những KNS như: kĩ năng sinh tồn, kĩ năng thích ứng với môi trường và học hỏi
từ thế giới tự nhiên, kĩ năng tự nhận thức bản thân, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng
tự lập, kĩ năng kiên nhẫn để lắng nghe và trò chuyện cùng bạn bè và người lớn. Cha
mẹ dạy con theo nội dung phù hợp với từng độ tuổi. Đối với trẻ 5 tuổi, cha mẹ dạy
trẻ dọn bàn ghế, lấy bát đĩa, phân chia thức ăn, tự ăn, và làm một số việc tự phục vụ
cho mình. Bên cạnh đó, nhiều quyển sách hướng dẫn về cách thức thực hiện những
kĩ năng sống một cách tỉ mĩ được ra đời. Đó chính là sách hướng dẫn trẻ sử dụng nhà
vệ sinh cho bé trai và bé gái; cách mặc quần áo dúng; cách ngồi ăn và tự ăn; song
song với lời hướng dẫn là những hình ảnh minh họa giúp mang lại hiệu quả giáo dục
(Sugahara Yuko, người dịch NguyễnThị Thu, 2015).
Người Do Thái giáo dục con cũng rất đặc biệt, họ dạy con làm việc nhà từ nhỏ
tùy theo lứa tuổi, dạy con tính tự lập, trẻ 2 tuổi đã có thể tự phục vụ bản thân, tự ăn
uống và thay quần áo. Đến khi trẻ 5 tuổi, trẻ bắt đầu được giao việc nhà (lau nhà, tưới
cây, rửa chén…) và được trả tiền từ cha mẹ, bên cạnh đó trẻ phải thực hiện việc tự
phục vụ cho mình là tự gấp quần áo, tự xếp sách vở, chuẩn bị đồ dùng đồ học (Đỗ
Thị Bắc, 2015).
Tác giả Côvaliôp đã rất chú trọng đến việc giáo dục lao động tự phục vụ cho
trẻ. Theo tác giả thì lao động là một thói quen của con người, một khi đã trở thành
thói quen thì con người luôn muốn chủ động thực hiện, họ cảm thấy vui khỏe, hăng
say, và cuộc đời có ý nghĩa hơn rất nhiều. Vì vậy, đối với trẻ em một khi các kỹ năng
tự phục vụ đã hình thành thì cần được thực hiện một cách thường xuyên nhất và phải
liên tục nhằm mục đích biến KNTPV thành thói quen và là niềm vui trong cuộc sống.
Hơn thế nữa, chúng tạo thành động lực thúc đẩy trẻ hoàn thành tốt các kĩ năng nhằm
mục đích thành công và mang lại sự hài lòng cho người khác. Vì thế, tác giả cũng cập
đến yêu cầu trong giáo dục KNTPV cho trẻ đó là phải tạo niềm vui, tạo sự khích lệ
để cho trẻ thích thú trong học cách lao động (Phan Xuân Trường, 2010).
Tác giả Nhechaeva đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò KNTPV đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Tác giả cho rằng cần phải giáo dục
KNTPV cho trẻ càng sớm càng tốt để giúp trẻ thực hiện một cách tự giác. Tác giả
11
cũng chỉ ra cách thức để mang lại hiệu quả trong giáo dục KNTPV đó là khi tiến hành
phải hướng dẫn trẻ từng bước thật cụ thể, thật tỉ mỉ và đặc biệt là phải có thời gian
dài và đủ. Nhechaeva cũng đề xuất một số phương pháp nhằm mang lại hiệu quả nhất,
đó là: Làm mẫu từng thao tác, giải thích bằng lời, nêu gương, tập luyện hàng ngày,
sử dụng trò chơi, sử dụng trực quan, để dạy trẻ trong giờ học, trong lao động, trong
sinh hoạt hàng ngày (Đỗ Thị Bắc, 2015).
Tác giả Karen Stephens để cập đến KNTPV của trẻ như là một phần tất yếu
trong sự phát triển một cơ thể hoàn thiện ở trẻ. Tác giả trình bày một số kĩ năng tự
phục vụ của trẻ như: sử dụng các dụng cụ chải chuốt như bàn chải đánh răng và lược
chải tóc; khả năng ăn uống độc lập với việc tự sử dụng dụng cụ và chén, tự mặc quần
áo, trẻ tự dọn dẹp đồ chơi, chuẩn bị giường ngủ. Tác giả cũng nhấn mạnh đến vai trò
của giáo dục trong việc hình thành KNTPV cho trẻ: bản thân của đứa trẻ không tự
hình thành những KNTPV, trẻ chỉ biết và hình thành khi được nhìn thấy người lớn
thực hiện trước mắt mình và trẻ được tập luyện hằng ngày. Do đó, phụ huynh cần
giáo dục cho trẻ bằng việc làm gương và tạo điều kiện cho trẻ thực hành kĩ năng tự
phục vụ của mình trong các tình huống sẵn có (Karen Stephens, 2007).
Như vậy, các nước trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về KNS trong đó có
KNTPV dưới nhiều góc độ: khái niệm, phân loại và cách giáo dục. Nhưng những vấn
đề được đề cập chỉ nói chung chung về mọi lứa tuổi, điều đó chứng tỏ là hướng nghiên
cứu về KNS chưa cụ thể để có thể phân chia kĩ năng cho từng lứa tuổi và từng nội
dung kĩ năng sống cụ thể. Đối với KNS dành cho trẻ mầm non ít có các nghiên cứu
chuyên sâu trong đó có nghiên cứu KNTPV của trẻ mầm non.
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kĩ năng tự phục vụ ở Việt Nam
Trước những năm 1990, nền giáo dục Việt Nam đã có sự quan tâm đến việc rèn
luyện KNS cho trẻ mặc dù chưa có những nghiên cứu sâu sắc về KNS.
Sau những năm 1990, một số bộ luật của nước Việt Nam được sửa đổi cũng đã
có những định hướng và điều khoản liên quan đến việc trang bị kĩ năng sống cho học
sinh: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật giáo dục năm 2005.
Nền giáo dục việt nam cũng đã rất quan tâm đến các vấn đề của người học đặc biệt
12
là sự phát triển toàn diện nhân cách nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền tri
thức và của cuộc sống hiện đại. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành thực hiện chương
trình giáo dục KNS cho học sinh phổ thông, thông qua dự án “Giáo dục sống khỏe
mạnh, kĩ năng cho trẻ và vị thành niên”. Học sinh được tham gia vào dự án này ở các
tỉnh: Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Gia Lai, Kon Tum, Hồ
Chí Minh, An Giang, Kiên Giang. Mục tiêu của dự án này là: hình thành thái độ tích
cực của học sinh đối với việc xây dựng cuộc sống khỏe về thể chất, mạnh về tinh
thần, hiểu biết về xã hội; bên cạnh đó còn hướng đến nhận thức của cha mẹ học sinh
về kiến thức và cách thức để giúp họ chủ động truyền thụ những kĩ năng cần thiết cho
con em mình (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2001).
Bên cạnh đó, Chính Phủ Việt Nam đã kí công ước về quyền trẻ em và cam kết
thực hiện mục tiêu giáo dục cho mọi người theo kế hoạch hành động Dakar: nâng cao
ảnh hưởng của nền giáo dục có chất lượng, đặc biệt là giáo dục KNS (Huỳnh Văn
Sơn, 2009).
“Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi” của tác giả Lê Bích Ngọc. Sách này
dành cho các bậc Phụ Huynh có con 5 – 6 tuổi ở vùng nông thôn và là tài liệu tham
khảo cho Giáo Viên Mầm non. Nội dung của sách nói về sự phân loại các nhóm kĩ
năng sống và cách thức giáo dục cho trẻ. Tác giả đã đưa ra 7 nhóm kĩ năng sống cần
giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đó là: kĩ năng vận động, kĩ năng tự phục vụ, kĩ
năng tình cảm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xã hội, kĩ năng ngôn ngữ, kĩ năng nhận thức.
Tác giả đã chính thức đề cập đến KNTPV của trẻ 5 – 6 tuổi. KNTPV bao gồm các kĩ
năng nhỏ: kĩ năng ăn uống, kĩ năng vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự bảo vệ sức khỏe, kĩ
năng tự phòng chống các tai nạn thông thường. Theo tác giả thì trẻ từ 5 – 6 tuổi đã có
thể thực hiện một số kĩ năng tự phục vụ cho mình nên cha mẹ, giáo viên cần hướng
dẫn khuyến khích và củng cố những kĩ năng này nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, tự lực, tự
tin, an toàn và phát triển lành mạnh (Lê Bích Ngọc, 2009).
Sách “Nhập môn kĩ năng sống” của tác giả Huỳnh Văn Sơn viết về những vấn
đề liên quan đến KNS, thực trạng KNS của sinh viên. Tác giả cũng cho rằng: “Thực
tế cho thấy, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có những KNS phù hợp.
13
Hiểu một cách đơn giản, KNS là khả năng tồn tại và thích ứng của con người trong
cuộc sống thực tế” Theo tác giả, nghiên cứu về KNS có thể theo nhiều góc độ, nhiều
cách tiếp cận khác nhau, cho dù là có nhiều tên gọi khác nhau và nhiều cách rèn luyện
khác nhau về KNS nhưng hầu hết các kĩ năng sống đều phải tuân theo bộ ba của tâm
lý con người, đó là: nhận thức, thái độ, hành vi. Như vậy, KNS thể hiện qua cách
sống, cách nhìn nhận cuộc sống một cách tích cực (Huỳnh Văn Sơn, 2009).
Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi do Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra sử dụng
vào năm 2010. Bộ chuẩn này quy định những nội dung và khả năng trẻ 5 tuổi cần
phải đạt được. Trong đó bao gồm các chuẩn về thể chất, về giao tiếp, về nhận thức,
về cảm xúc và về những điều mong đợi ở các chuẩn vệ sinh, dinh dưỡng và an toàn
cá nhân của trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Đây là nội dung giáo dục KNTPV rất quan trọng đối
với trẻ mẫu giáo 5 tuổi, nó đã được trình bày rõ ở các chỉ số 5, 15, 16, 18, 19, 20, 21,
22, 23, 24, 25, 26 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010).
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho ra đời bộ sách “Giáo dục kĩ năng sống trong
môn Ngữ Văn, Lịch Sử, Địa Lý, Sinh Học, Giáo Dục Công Dân ở trường Phổ Thông”
dùng để thử nghiệm trong trường học. Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều chủ
đề về KNS được các tác giả biên soạn: KNS – một số kĩ năng cần thiết, KNS – bạn là
ai? của tác giả Phạm Thanh Hiệp; KNS – rèn luyện bản thân của tác giả Nguyễn Minh
Anh; KNS – hoàn thiện chính mình của Nguyễn Minh Anh – Nguyễn Thị Chung;
KNS – sơ cấp cứu và an toàn của Trần Văn Nghĩa; KNS – những bệnh tật ở tuổi học
trò va cách phòng tránh của Đỗ Hồng Ngọc. Bộ sách KNS ra đời đã cung cấp những
kiến thức cơ bản về KNS, qua đó giúp giải quyết được những vấn đề nan giải trong
cuộc sống hằng ngày, hình thành những nét tính cách và định hướng cho giá trị sống
của cuộc đời mỗi học sinh (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010).
Luận văn thạc sĩ tâm lí của tác giả Nguyễn Hữu Long đã nghiên cứu “Kĩ năng
sống ở lứa tuổi trung học cơ sở”. Tác giả đã bước đầu đưa vào thực nghiệm nhằm tác
động tâm lí để giúp nâng cao một số kĩ năng của học sinh trung học, bao gồm các kĩ
năng: Kĩ năng tự nhận thức bản thân, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng chia sẻ và hợp tác,
Kĩ năng phân biệt hành vi hợp lí và chưa hợp lí. Trong công trình nghiên cứu này,
14
tuy tác giả đã đưa vào thực nghiệm các giải pháp nhằm nâng cao kĩ năng cho học sinh
trung học nhưng sự tác động này chỉ mới dừng lại ở 4 kĩ năng, khách thể đưa vào
thực nghiệm chưa được phổ biến ở nhiều độ tuổi (Nguyễn Hữu Long ,2010).
Tác giả Mai Hiền Lê đã thực hiện luận văn thạc sĩ “Một số biểu hiện kĩ năng
sống của trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non thực hành thành phố Hồ Chí Minh”. Tác
giả đã rất mạnh dạn bước vào nghiên cứu KNS của lứa tuổi mầm non – độ tuổi ít được
các tác giả nghiên cứu. Trong đề tài, tác giả đã thực hiện cuộc khảo sát khá đầy đủ về
các nội dung, các KNS cần thiết ở độ tuổi mầm non. Hạn chế của đề tài là tác giả chỉ
mới khảo sát ở một trường mầm non và đưa vào thực nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục KNS cho trẻ mầm non thì chỉ mới có một kĩ năng giao tiếp (Mai Hiền
Lê, 2010).
Sách “Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ mầm non” của tác giả
Trương Thị Hoa Bích Dung, tác giả cho rằng KNS là những kĩ năng cần có cho hành
vì lành mạnh giúp cho con người đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc
sống hằng ngày. Mục tiêu của việc giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo là: giúp trẻ hình
thành các phẩm chất mạnh dạn, tự tin, lễ phép và thân thiện với mọi người…giáo dục
trẻ từ những hành vi đơn giản nhất, thông qua đó giúp trẻ hình thành và phát triển
nhân cách lành mạnh. Tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề về vai trò, ý nghĩa, các nội dung
giáo dục, phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mồm non. Trong tác phẩm này,
tác giả đã trình bày 8 nhóm kĩ năng cần giáo dục cho trẻ mẫu giáo, đó là: kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng thích nghi, kĩ năng khám phá thế giới xung quanh, kĩ năng tự chăm sóc
bản thân, kĩ năng tạo niềm vui, kĩ năng tự bảo vệ, kĩ năng làm việc đội nhóm, kĩ năng
giải quyết vấn đề. Trong đó, tác giả phân tích “Kĩ năng tự chăm sóc bản thân” gần
giống như KNTPV, nó bao gồm 3 kĩ năng: kĩ năng tự xúc ăn, kĩ năng tự mặc quần
áo, kĩ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân. Tác giả cho rằng: “Khi đến 4 tuổi, hầu hết trẻ
đã biết cách tự mình làm lấy một số việc như: mặc quần áo, chải răng, rửa tay, ăn một
mình và tự đi tắm. Việc học tự chăm sóc bản thân mình là một phần quan trọng trong
quá trình phát triển nhân cách cá nhân và nhận thức xã hội của bé” (Trương Thị Hoa
Bích Dung, 2012).
15
Tác giả Lê Bích Ngọc với “Module 39 về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu
giáo”. Module này đã cung cấp cho GVMN những kiến thức kĩ năng thái độ về giáo
dục KNS cho trẻ mẫu giáo. Trong Module này, tác giả đã đề cập đến các nội dung:
mục tiêu của giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo, nội dung, phương pháp, cũng như là
hình thức giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo. Mục tiêu của giáo dục KNS cho trẻ mẫu
giáo được thể hiện ở: ý thức về bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện công
việc, ứng phó với thay đổi. Trong nhóm kĩ năng tự ý thức về bản thân của trẻ mẫu
giáo, bao gồm các giá trị về việc bảo vệ bản thân tránh khỏi những nguy hiểm, tự
phục vụ cho bản thân, tự xúc ăn, ăn uống từ tốn, không khua đũa chén, ăn không rơi
vãi…Điều đó cho thấy rằng, tác giả đã đưa KNTPV vào nội dung cần được giáo dục
KNS cho trẻ mẫu giáo một cách có hệ thống, đầy đủ và rộng khắp (Lê Bích Ngọc,
2013).
Sách “Giáo trình chuyên đề giáo dục kĩ năng sống” của tác giả Nguyễn Thanh
Bình có viết: “Nội dung kĩ năng sống thể hiện qua mục tiêu cụ thể đối với trẻ cuối
tuổi mẫu giáo về Phát triển thể lực: có một số KNS và thói quen tự phục vụ liên quan
đến sức khỏe, an toàn và vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường sinh
hoạt. Biết cách phòng tránh một số bệnh thông thường, có nề nếp thói quen tự phục
vụ, hành vi văn minh trong ăn uống, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, nhận biết
những nơi không an toàn, nguy hiểm và cách phòng tránh” (Nguyễn Thanh Bình,
2014).
Đề tài luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục của tác giả Đỗ Thị Bắc “Giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở trường mầm non thành phố Thái Nguyên” với
kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: Nhận thức của giáo viên về giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé cơ bản là đúng nhưng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Tác
giả cũng khẳng định rằng GVMN đã sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức nhằm
giáo dục KNTPV cho trẻ tuy nhiên kết quả chưa khả quan, một số trẻ vẫn chưa thực
hiện được những KNTPV cơ bản. Tác giả đã mô tả được bức tranh về thực trạng giáo
dục kĩ năng tự phục cho trẻ mẫu giáo bé ở thành phố Thái Nguyên đã đạt được ở mức
nào, tác giả cũng đã đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.Tuy
16
nhiên, khuyết điểm của đề tài là tác giả chưa đưa các giải pháp vào thực nghiệm để
có thể tác động và tìm hiểu mức độ hiệu quả khi tác động ra sao (Đỗ Thị Bắc, 2015).
Đặc biệt, trong Chương trình Giáo dục Mầm non cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể
của nội dung giáo giáo dục trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi về dinh dưỡng và sức khỏe, đó là:
“Nhận biết một số món ăn, thực phẩm thông thường và lợi ích của chúng đối với sức
khỏe; thực hiện được một số việc tự phục vụ; có hành vi và thói quen tốt trong sinh
hoạt và giữ gìn sức khỏe; biết một số nguy cơ không an toàn và phòng tránh”. Như
vậy, chương trình giáo dục mầm non đã thực sự coi trọng KNTPV của trẻ (Chương
trình Giáo dục Mầm non, 2016).
Gần đây nhất là tác giả của luận văn thạc sĩ tâm lí về đề tài “Kĩ năng thể hiện
xúc cảm trong trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi là Nguyễn
Thị Phượng. Đề tài tập trung nghiên cứu kĩ năng thể hiện xúc cảm của trẻ mầm non
ở một số trường mầm non tại thành phố Cần Thơ. Thành quả của đề tài là đánh giá
được khả năng nhận biết xúc cảm của trẻ qua tranh ảnh và qua nét mặt cử chỉ, biểu
cảm lời nói của cô giáo dựa vào Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi và khảo sát được
kĩ năng thể hiện các trạng thái xúc cảm của trẻ qua nét mặt cử chỉ, biểu cảm lời nói
khi đóng vai trong trò chơi. Tác giả cho rằng: “Chính thế giới người lớn thu nhỏ trong
trò chơi đóng vai theo chủ đề giúp trẻ có cơ hội thể hiện các sắc thái xúc cảm khác
nhau, qua đó trẻ dần dần trưởng thành và hoàn thiện nhân cách” (Nguyễn Thị Phượng,
2016).
Cùng thời điểm trên, có luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục “Thực trạng sử dụng
các phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở huyện Châu
Thành tỉnh Tây Ninh”của tác giả Lê Thị Trinh. Tác giả đã hệ thống những nhóm
KNS cần thiết phải giáo dục cho trẻ mầm non đặc biệt ở độ tuổi từ 5 – 6 tuổi, đó là 7
nhóm kĩ năng: nhóm kĩ năng vận động; nhóm KNTPV; nhóm kĩ năng tình cảm; nhóm
kĩ năng giao tiếp; nhóm kĩ năng xã hội; nhóm kĩ năng ngôn ngữ; nhóm kĩ năng nhận
thức. Trong đó, tác giả cũng đã chính thức đề cập đến nhóm KNTPV, đó là những kĩ
năng về ăn uống, về vệ sinh cá nhân, về tự bảo vệ sức khỏe; về phòng chống các tai
nạn thông thường. Kết quả nghiên cứu được từ kĩ năng tự phục vụ cho thấy rằng hầu
17
hết trẻ đều biết ăn mặc sạch sẽ gọn gàng, biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, trẻ biết là không
được tự ý đụng vào những vật nguy hiểm và không đi theo hay nhận quà của người
lạ, biết lựa chọn quần áo phù hợp với thời tiết. Đề tài đã nêu lên thực trạng kĩ năng
sống của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh và sử dụng các
phương pháp giáo dục kĩ năng sống vào thực tế. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu với số
lượng nhiều kĩ năng sống nên việc nghiên cứu sâu sát ở nhiều khía cạnh của từng kĩ
năng vẫn còn hạn chế, các giải pháp đề ra chưa được đưa vào tác động thực nghiệm
(Lê Thị Trinh, 2016).
Trong quyển sách “Phát triển kĩ năng sống” của tác giả Nguyễn Hữu Long, tác
giả đã đề cập đến “Kĩ năng tự phục vụ”. Tác giả cho rằng nếu mỗi người có khả tự
phục vụ cho chính bản thân mình thì những người xung quanh sẽ cảm thấy yên tâm,
và điều đó giúp cho mỗi cá nhân thêm tự tin, biết giúp đỡ, biết quan tâm người khác
một cách thật lòng. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng KNTPV bản thân là việc một
người có khả năng tổ chức cuộc sống của mình thông qua việc thực hiện hành động
một cách hiệu quả dựa trên kinh nghiệm, nhận thức, và bộc lộ cảm xúc phù hợp của
bản thân (Nguyễn Hữu Long, 2016).
Tác giả Huỳnh Văn Sơn vừa với một số bộ sách như: “ rèn luyện kĩ năng sống
dành cho trẻ mầm non”. Đây là những quyển sách giúp cho GVMN rèn luyện cho trẻ
mẫu giáo những KNS trong đó có kĩ năng tự bảo vệ. Sách “Kĩ năng phòng tránh xâm
hại cho trẻ mầm non”, sách này giúp cho trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về bản thân, giúp
trẻ khám phá, trãi nghiệm, có cách ứng xử phù hợp với giới tính và biết cách bảo vệ
mình. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng giúp cho phụ huynh và giáo viên có thể nhận thức
sâu sắc hơn, từ đó hỗ trợ cho trẻ trong việc phòng tránh bị xâm hại cho trẻ mầm non
(Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), Mai Mỹ Hạnh, Giang Thiên Vũ, Nguyễn Lê Bảo Hoàn
và Nguyễn Thanh Xuân, 2017).
Bộ sách Thực hành kĩ năng sống, đây là tài liệu chính thức về KNS dành cho
học sinh từ lớp 1 đến lớp 9. Bộ sách gồm 9 tập, tác giả đưa ra các nhóm kĩ năng sống
cơ bản tương ứng với từng độ tuổi, từng lớp. Bộ sách này, được thiết kế thành 2 sản
phẩm: một là tài liệu dành cho giáo viên để hỗ trợ tích cực trong giảng dạy và một là