BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Nữ Bích Tuyền
KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRÊN FACEBOOK CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số
: 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐOÀN VĂN BÁU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Thông
tin sử dụng trong luận văn là hoàn toàn chính xác, phù hợp với tình hình
thực tế tại Trường Đại học An ninh nhân dân. Số liệu thống kê được tác
giả thu thập một cách khách quan, đáng tin cậy thông qua việc tiến hành
khảo sát trên 367 sinh viên hệ chính quy tại Trường Đại học An ninh nhân
dân.
Người cam đoan
Nguyễn Nữ Bích Tuyền
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Phòng Sau
đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức, hỗ
trợ và tạo điều kiện tốt nhất cho học viên cao học khoá 28. Tác giả cũng
xin được gửi lời cám ơn đến quý Thầy, Cô Khoa Tâm lí học, Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã giảng dạy, giúp đỡ lớp
học viên cao học chuyên ngành Tâm lí học khoá 28 trong suốt thời gian
qua. Đặc biệt, tác giả xin được gửi lời biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ
Đoàn Văn Báu – người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn tôi
trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, quý Thầy,
Cô Bộ môn Tâm lý, Trường Đại học An ninh nhân dân đã tạo điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành tới các bạn sinh viên tại Trường
Đại học An ninh nhân dân đã tích cực, nhiệt tình tham gia và hỗ trợ cho tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Nguyễn Nữ Bích Tuyền
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRÊN
FACEBOOK CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN
NINH NHÂN DÂN
………………………………………………………….. 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ……………………………………………………. 6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
……………. 6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên
Facebook
…………………………………………………………………… 12
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu ……………………………………. 15
1.2.1. Kỹ năng giao tiếp ………………………………………………………… 15
1.2.2. Mạng xã hội Facebook
…………………………………………………. 29
1.2.3. Giao tiếp trên Facebook ……………………………………………….. 31
1.2.4. Kỹ năng giao tiếp trên Facebook …………………………………… 33
1.2.5. Kỹ năng giao tiếp trên Facebook của sinh viên trường Đại
học An ninh nhân dân …………………………………………………. 36
Tiểu kết chương 1 ……………………………………………………………………………… 45
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRÊN
FACEBOOK CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
AN NINH NHÂN DÂN
…………………………………………….. 47
2.1. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
…………………… 47
2.1.1. Khách thể nghiên cứu ………………………………………………….. 47
2.1.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ……………………………………… 48
2.2. Thực trạng kỹ năng giao tiếp trên Facebook của sinh viên
trường Đại học An ninh nhân dân
……………………………………….. 51
2.2.1. Thực trạng giao tiếp trên Facebook của sinh viên trường
Đại học An ninh nhân dân …………………………………………… 51
2.2.2. Kỹ năng giao tiếp trên Facebook của sinh viên trường Đại
học An ninh nhân dân …………………………………………………. 57
2.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trên FB của
sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân
…………………… 80
2.2.4. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp
trên Facebook của sinh viên trường Đại học An ninh nhân
dân
……………………………………………………………………………. 82
Tiểu kết chương 2 ……………………………………………………………………………… 85
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………….. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………….. 89
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………. 94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANĐT
: An ninh Điều tra
ANNB
: Trinh sát bảo vệ An ninh nội bộ
ANXH
: Trinh sát bảo vệ An ninh xã hội
ĐHANND
: Đại học An ninh nhân dân
ĐLC
: Độ lệch chuẩn
ĐTB
: Điểm trung bình
FB
: Facebook
PG
: Trinh sát Phản gián
Trang
Bảng 2.1. Khách thể nghiên cứu …………………………………………………………… 47
Bảng 2.2. Nhận thức về mạng xã hội Facebook ……………………………………… 52
Bảng 2.3. Mục đích sử dụng Facebook
………………………………………………….. 53
Bảng 2.4. Nội dung chia sẻ trên Facebook …………………………………………….. 54
Bảng 2.5. Phương tiện giao tiếp trên Facebook ………………………………………. 56
Bảng 2.6. Nhận thức về kỹ năng giao tiếp trên Facebook ………………………… 57
Bảng 2.7. Nhận thức về kỹ năng định vị trong giao tiếp trên Facebook …….. 59
Bảng 2.8. Biểu hiện kỹ năng định vị trong giao tiếp trên Facebook ………….. 60
Bảng 2.9. Biểu hiện kỹ năng định vị trong giao tiếp trên Facebook theo
nhóm khách thể ………………………………………………………………….. 62
Bảng 2.10. Thực trạng kỹ năng định vị trong giao tiếp trên Facebook khi xử
lý tình huống ……………………………………………………………………. 63
Bảng 2.11. Thực trạng kỹ năng định vị trong giao tiếp trên Facebook khi xử
lý tình huống theo nhóm khách thể
……………………………………… 65
Bảng 2.12. Nhận thức về kỹ năng định hướng trong giao tiếp trên Facebook
……………………………………………………………………………………….. 66
Bảng 2.13. Biểu hiện kỹ năng định hướng trong giao tiếp trên Facebook ….. 68
Bảng 2.14. Biểu hiện kỹ năng định hướng trong giao tiếp trên Facebook
theo nhóm khách thể …………………………………………………………. 69
Bảng 2.15. Thực trạng kỹ năng định hướng trong giao tiếp trên Facebook
khi xử lý tình huống
………………………………………………………….. 70
Bảng 2.16. Thực trạng kỹ năng định hướng trong giao tiếp trên Facebook
khi xử lý tình huống theo nhóm khách thể …………………………… 72
Bảng 2.17. Nhận thức về kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp
trên Facebook
…………………………………………………………………… 73
Bảng 2.18. Biểu hiện về kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp trên
Facebook …………………………………………………………………………. 74
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.19. Biểu hiện kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp trên
Facebook theo nhóm khách thể ………………………………………….. 76
Bảng 2.20. Thực trạng kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp trên
Facebook khi xử lý tình huống …………………………………………… 77
Bảng 2.21. Thực trạng kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp trên
Facebook khi xử lý tình huống theo nhóm khách thể
…………….. 79
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là một hoạt động đặc biệt, là nhu cầu không thể thiếu của con
người. Giao tiếp gắn liền với cuộc đời của mỗi cá nhân, là phương tiện để con
người thiết lập và vận hành các mối quan hệ xã hội nhằm thỏa mãn những nhu
cầu thiết yếu khác trong cuộc sống. Thông qua giao tiếp, con người tiếp thu
kinh nghiệm xã hội – lịch sử, những giá trị văn hóa để hình thành và phát triển
nhân cách của bản thân. Với sự phát triển của xã hội, phương tiện và hình
thức giao tiếp ngày càng đa dạng, thuận lợi. Có thể nói, cách mạng 4.0 đã mở
rộng một không gian mới về giao tiếp thông qua các trang mạng xã hội. Con
người dễ dàng thể hiện quan điểm về các vấn đề trong cuộc sống, chia sẻ với
những người khác thông qua trang cá nhân của bản thân. Giao tiếp trên mạng
xã hội tạo điều kiện thuận lợi về mặt thời gian, không gian cho cá nhân được
giao lưu, trao đổi bất cứ khi nào mình muốn. Do đó, mạng xã hội dần đóng
vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người, đặc biệt là giới trẻ. Theo
thống kê của Hootsuite và We Are Social vào tháng 4/2018, lượng người
dùng mạng xã hội nói chung trên toàn thế giới đã chạm ngưỡng xấp xỉ 3,3 tỷ.
Trong đó, FB vẫn đang dẫn đầu với 2,23 tỷ người dùng, YouTube và
WhatsApp đồng hạng ở vị trí thứ 2 với 1,5 tỷ người dùng. Cũng trong thống
kê này, Việt Nam xếp thứ 7 với 58 triệu người dùng FB. (Nguyễn Nguyễn,
2018). Tuy nhiên, cũng vì tính chất mở của mạng xã hội, con người thoải mái
hơn trong lời nói, ngôn từ dẫn đến việc đôi khi không ý thức được hình ảnh
bản thân, mức độ ảnh hưởng và hậu quả từ những gì mình chia sẻ trên các
trang mạng xã hội. Những thông tin trên mạng xã hội thường được lưu lại
trong các máy chủ. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến một số đối tượng
giới trẻ cũng tham gia mạng xã hội như một hình thức giải trí cá nhân, nhưng
lại có đặc thù nghề nghiệp cần tính bảo mật cao như lực lượng vũ trang.
2
Ngày 22/8/2018, Bộ Công an ban hành Thông tư số 27/2017/TT-BCA về
quy tắc ứng xử của Công an nhân dân. Trong đó, ở khoản 2 điều 13 quy định
“Khi sử dụng các phương tiện điện tử khác, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân
dân không được truy cập, lưu trữ, phát tán, bình luận, chia sẻ các thông tin, tài
liệu, bài viết, hình ảnh có nội dung trái với thuần phong, mỹ tục; trái với
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy
định của ngành Công an; không giới thiệu, sử dụng tên, hình ảnh, phiên hiệu
đơn vị công an lên các trang mạng xã hội.” (Bộ Công an, 2017). Như vậy, có
thể thấy, bên cạnh việc phải chú ý trong giao tiếp cá nhân trên các phương
tiện điện tử, một trong những vấn đề quan trọng cần quán triệt của các sỹ
quan An ninh là là tính bảo mật thông tin về bản thân, đơn vị, công tác chuyên
môn nghiệp vụ.
Trường ĐHANND là một cơ sở đào tạo đội ngũ sỹ quan An ninh nhân
dân nằm trong hệ thống các trường Công an nhân dân và là đơn vị thường
trực chiến đấu của Bộ Công an, có nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Ngoài mục tiêu đào tạo sinh viên trở thành những sỹ quan An
ninh có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về pháp luật, tinh thông về nghiệp
vụ, sinh viên trường ĐHANND cần đáp ứng các yêu cầu bảo vệ An ninh quốc
gia cho công an các tỉnh và thành phố phía Nam. Bên cạnh việc học tập, rèn
luyện để đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp cần có, sinh viên An ninh cũng có
những hình thức giải trí khác của lứa tuổi thanh niên. Hầu hết sinh viên
trường ĐHANND đều sử dụng mạng xã hội để giao tiếp, tìm kiếm thông tin,
thể hiện quan điểm cá nhân về các vấn đề xã hội, chính trị. Thực tế cho thấy,
khi quan sát các trang mạng cá nhân của sinh viên trường ĐHANND, vẫn còn
thấy xuất hiện hình ảnh sinh viên mặc quân phục, hoặc để những phiên hiệu
của đơn vị công an lên trang cá nhân. Điều này gây ảnh hưởng đến tính bảo
mật mà Ngành quy định. Để đảm bảo các quy định của Ngành khi tham gia
mạng xã hội, đồng thời thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, giải trí cá nhân, sinh viên
3
trường ĐHANND cần có những hành vi, cách thức giao tiếp trên mạng xã hội
phù hợp.
Có thể nói, trên thế giới và ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu các vấn đề về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giao tiếp của đối tượng là học
viên, chiến sĩ công an nhân dân cũng như nghiên cứu về hành vi giao tiếp trên
mạng xã hội. Tuy nhiên, đề tài về kỹ năng giao tiếp trên FB của đối tượng sĩ
quan công an nhân dân, cụ thể là sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả xác lập đề tài nghiên cứu “Kỹ
năng giao tiếp trên Facebook của sinh viên trường Đại học An ninh nhân
dân”.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường
ĐHANND. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao kỹ năng giao
tiếp trên FB nói riêng và mạng xã hội nói chung của sinh viên trường
ĐHANND.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu một số lý luận có liên quan đến đề tài như kỹ năng, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trên FB, kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh
viên trường ĐHANND.
3.2. Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường
ĐHANND. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng
giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường ĐHANND.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên
trường ĐHANND.
4.2. Khách thể nghiên cứu: 367 sinh viên hệ chính quy của trường
ĐHANND.
4
5. Giả thuyết nghiên cứu
– Kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND ở mức trung
bình.
– Kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND dân có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm: Niên khóa; Giới tính; Chuyên
khoa.
– Kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố khách quan như như môi trường sinh hoạt, đặc thù
ngành nghề và chủ quan từ phía sinh viên.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường
ĐHANND trên FB dưới góc độ năng lực vận dụng tri thức đã có về FB, về kỹ
năng giao tiếp trong cuộc sống của khách thể nghiên cứu khi tham gia vào
mạng xã hội FB.
6.2. Giới hạn về không gian
– Không gian mạng xã hội FB.
– Trường ĐHANND.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập tài liệu, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: báo,
sách, tạp chí, các đề tài khoa học…
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Khảo sát hiểu biết của sinh viên về mạng xã hội FB, về kỹ năng giao tiếp
trên FB, biểu hiện mức độ các kỹ năng giao tiếp trên FB và cách giải quyết
tình huống khi tham gia FB của khách thể nghiên cứu để tìm hiểu, đánh giá về
thực trạng kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND.
5
7.2.2. Phương pháp quan sát
Thông qua quan sát 15 trang cá nhân FB trong khoảng thời gian từ tháng
1/2019 đến tháng 6/2019 của một số sinh viên để có những đánh giá về thực
trạng kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Thông qua trò chuyện, phỏng vấn 04 sinh viên để thu thập thêm dữ liệu
về thực trạng kỹ năng giao tiếp trên FB của sinh viên trường ĐHANND.
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Số liệu thu về được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 để đưa ra những
kết luận phù hợp trên bình diện thống kê.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRÊN FACEBOOK CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với hoạt động, giao tiếp là một trong những phương thức tồn tại và
phát triển của con người. Năng lực giao tiếp tốt giúp cá nhân thiết lập và vận
hành tốt các mối quan hệ xã hội, từ đó đạt được những thành công nhất định
trong cuộc sống. Do vậy, kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp trên FB – một
mạng xã hội giúp kết nối mọi người nhanh chóng và dễ dàng, là vấn đề luôn
được quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
1.1.1.1. Ở nước ngoài
Khái niệm về giao tiếp đã xuất hiện từ rất sớm, trong những quan điểm
của các nhà Triết học thời cổ đại như Socrate, Platon. Trong đó, giao tiếp là
sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người (Nguyễn Văn Đồng,
2009).
Trong xã hội hiện đại, khái niệm giao tiếp là một phạm trù được các nhà
Tâm lý học nghiên cứu một cách khoa học, hệ thống.
Nhà phân tâm học S.Freud đã chỉ ra rằng giao tiếp có mối liên hệ với
giấc mơ. Trong đó, cơ chế đồng nhất hóa đóng vai trò quan trọng. Cơ chế này
đảm bảo mối liên hệ qua lại giữa các chủ thể trong nhóm xã hội, tạo ra sự
đồng nhất cảm xúc, thấu cảm, tiếp thu tình cảm của người khác (Hoàng Thị
Phương, 2003).
Các nhà tâm lý học Gestalt phân tích giao tiếp thành các yếu tố và đặt
chúng trong hệ thống với các quan hệ xã hội. Có thể kể đến nghiên cứu của
nhà tâm lý học Pháp Bateson. Theo ông, mọi giao đều biểu hiện ra ở một
trong hai hệ thống là đối xứng và bổ sung. Tính hệ thống được thể hiện khi
7
con người thiết lập được sự bình đẳng, sự tương hỗ, còn tính bổ sung khi thể
hiện sự khác nhau thông qua giao tiếp (Hoàng Thị Phương, 2003).
Ngành Tâm lý học của Liên Xô (cũ) với các nhà tâm lý học như
.A.Leonchiev, K.Platonov, B.P.Lomov đã nghiên cứu vấn đề giao tiếp theo
nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Các hướng nghiên cứu này được tác giả
Huỳnh Văn Sơn tóm tắt trong cuốn “Giáo trình tâm lí học giao tiếp” như sau
(Huỳnh Văn Sơn, 2011).
Hướng thứ 1: Nghiên cứu lý luận chung về giao tiếp như bản chất, cấu
trúc, cơ chế giao tiếp, phương pháp luận nghiên cứu giao tiếp, mối quan hệ
giữa giao tiếp và hoạt động…. Hướng nghiên cứu này thể hiện hai luồng quan
điểm: luồng quan điểm thứ nhất cho rằng giao tiếp có thể là một dạng hoạt
động hoặc có thể là một phương thức, điều kiện của hoạt động; luồng quan
điểm thứ hai nhấn mạnh hoạt động và giao tiếp là hai phạm trù tương đối độc
lập trong quá trình thống nhất của đời sống con người, nếu phạm trù “hoạt
động” phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì phạm trù “giao
tiếp” phản ánh mối quan hệ chủ thể và chủ thể.
Hướng thứ 2: Nghiên cứu các dạng giao tiếp nghề nghiệp. Trong đó,
giao tiếp sư phạm giữa giáo viên và học sinh là một loại giao tiếp nghề nghiệp
được nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu.
Đối với hệ thống lý luận về kỹ năng giao tiếp, một số nhà Tâm lý học
trên thế giới cũng đã tập trung nghiên cứu như A.A.Leonchiev đã nghiên cứu
và liệt kê một số kỹ năng giao tiếp sư phạm như kỹ năng điều khiển hành vi
bản thân, kỹ năng quan sát, kỹ năng nhạy cảm xã hội, biết phán đoán nét mặt
người khác, kỹ năng đọc, hiểu, biết mô hình hóa nhân cách học sinh, kỹ năng
làm gương cho học sinh, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, kỹ năng kiến tạo sự tiếp
xúc, kỹ năng nhận thức (Ngô Công Hoàn, 2007).
IP.Dakharov nghiên cứu đề ra trắc nghiệm 10 kỹ năng giao tiếp gồm kỹ
năng tiếp xúc, thiết lập quan hệ, kỹ năng biết cân bằng nhu cầu bản thân và
8
đối tượng trong quá trình giao tiếp, kỹ năng nghe đối tượng, kỹ năng tự kiềm
chế, kiểm tra người khác, kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi, kỹ năng diễn đạt
dễ hiểu, cụ thể, kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết
phục, kỹ năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp, kỹ năng nhạy cảm
trong giao tiếp (Ngô Công Hoàn, 2007).
Năm 1988, Allan Pease, một nhà Tâm lý học Mỹ – đã xuất bản cuốn
“Body language” (1988) với bản tiếng Việt là “Cuốn sách hoàn hảo về ngôn
ngữ cơ thể” do Lê Huy Lâm dịch vào năm 2008 đã phân tích kỹ năng phát
hiện các trạng thái tâm lý thông qua cử chỉ, điệu bộ… của con người (Allan
Pease, 2008).
Năm 1944, Derak Torrington xuất bản tác phẩm “Tiếp xúc mặt đối mặt
trong quản lý” phân tích các hình thức giao tiếp thường gặp giữa người quản
lý với người bị quản lý. Từ đó, rút ra những kỹ năng giao tiếp cần có của
người quản lý (D. Torrington, 1994).
Một quyển sách nổi tiếng của tác giả Dale Carnegie là “Đắc nhân tâm”
(2002) đã đưa kỹ năng giao tiếp thành nghệ thuật, hệ thống những bí quyết để
đạt hiệu quả cao trong giao tiếp (Dale Carnegie, 2002).
Năm 2003, tác giả Paul Ekman với tác phẩm “Emotion Revealed” đã rút
ra được kỹ năng nhận diện nét mặt và các cảm xúc đi kèm trong quá trình
giao tiếp thông qua các cảm xúc biểu hiện giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp
(Paul Ekman, 2003).
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, ngành Tâm lý học nói chung và phân nhánh Tâm lý học
giao tiếp nói riêng vẫn còn là ngành khoa học non trẻ. Tuy vậy, cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn. Có thể chia thành
nhiều hướng nghiên cứu như sau:
Cũng như trên thế giới, hướng đầu tiên nghiên cứu hệ thống lý luận của
khái niệm giao tiếp với các vấn đề như bản chất, vai trò, vị trí của giao tiếp
9
trong sự hình thành nhân cách. Trong đó, có thể kể đến “Các Mác và phạm trù
giao tiếp” (1963) của Đỗ Long, tác giả Bùi Văn Huệ với “Bàn về phạm trù
giao tiếp” (1981); “Giao tiếp, tâm lý, nhân cách” (1981) và “Giao tiếp và sự
phát triển nhân cách của trẻ” (1981), “Giao tiếp và sự hình thành nhân cách
thiếu niên” (1999) của tác giả Đào Thị Oanh, nhóm tác giả Nguyễn Sinh Huy,
Trần trọng Thủy với “Nhập môn khoa học giao tiếp” (2006).
Hướng thứ hai nghiên cứu giao tiếp dưới góc độ giao tiếp sư phạm với
hệ thống lý luận về khái niệm giao tiếp và các nguyên tắc, quy trình ứng xử
trong giao tiếp sư phạm. Có thể kể đến một số giáo trình, sách tham khảo như
“Đặc điểm giao tiếp sư phạm” (1985) của tác giả Trần Trọng Thủy, “Giao
tiếp và ứng xử sư phạm” (1992) của tác giả Ngô Công Hoàn, “Giao tiếp sư
phạm” (1997) của tác giả Hoàng Anh.
Hướng cuối cùng tập trung vào nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong nhiều
lĩnh vực khác nhau. Đây cũng là hướng mà tác giả tập trung nghiên cứu trong
đề tài.
Trong hướng nghiên cứu này, có thể kể đến một số tác giả và sản phẩm
như:
Nguyễn Văn Đính nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của hướng dẫn viên
du lịch trong “Giáo trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh
doanh du lịch” (1997) như kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều
khiển giao tiếp (Hoàng Thị Chiến, 2012); tác giả Trần Trọng Thủy đề cập đến
một số kỹ năng giao tiếp như kỹ năng chỉnh sửa các ấn tượng ban đầu của
mình về người khác khi mới quen họ, kỹ năng bước vào giao tiếp với người
khác một cách không có định kiến trong bài “Tình người, giao tiếp và văn hóa
giao tiếp” (Nguyễn Huy Toàn, 2011).
Tác giả Nguyễn Đình Xuân đã nghiên cứu GT trong quản lý với các vấn
đề như khái niệm, ý nghĩa, chức năng, cấu trúc, loại hình và phong cách GT
trong quản lý. Qua đó, tác giả đã đề cập đến một số KNGT như KN lựa chọn
10
địa điểm, thời gian tiếp khách, KN làm chủ cảm xúc của mình trong tiếp xúc,
KN nghe và dẫn dắt người nói để thu thập thông tin, KN nói gọn gàng…
(Nguyễn Đình Xuân và Vũ Đức Đán, 1994).
Nhóm tác giả Nguyễn Đình Chỉnh, Phạm Ngọc Uyển trong tác phẩm
“Tâm lý học quản lý” (1998) đã đề cập đến cấu trúc của giao tiếp. Theo đó,
giao tiếp sư phạm bao gồm các thành phần như biết định hướng, hiểu được
các dấu hiệu bề ngoài và ngôn ngữ trong giao tiếp, biết điều khiển quá trình
giao tiếp (Nguyễn Huy Toàn, 2011).
Ngoài ra, còn có một số luận án, luận văn nghiên cứu thực tiễn như:
Luận án Tiến sĩ của Võ Sĩ Lục về “Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh
sát an ninh và phương pháp đánh giá chúng” (2002) nghiên cứu về kỹ năng
giao tiếp trong hoạt động nghiệp vụ của trinh sát an ninh dưới góc độ chia
thành các nhóm: kỹ năng định vị, kỹ năng định hướng và kỹ năng điều khiển
trong giao tiếp (Võ Sỹ Lục, 2002).
Luận án Tiến sĩ “Một số đặc điểm giao tiếp ngoài giảng đường của sinh
viên” (2007) của Nguyễn Văn Đồng đã đề cập đến thực trạng giao tiếp của
sinh viên trong hoạt động ngoài giảng đường. Từ đó, đề xuất một số biện
pháp để tác động nhằm tăng cường các yếu tố tích cực và khắc phục những
yếu tố tiêu cực trong giao tiếp của khách thể nghiên cứu (Phạm Văn Đồng,
2007).
Luận văn thạc sĩ của tác giả Đới Thị Thu Thủy (2003) nghiên cứu về
“Một số khó khăn tâm lý trong giao tiếp với giáo viên của sinh viên người dân
tộc trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai” đã tìm hiểu những khó khăn tâm lý
nảy sinh trong quá trình giao tiếp với giáo viên của sinh viên người dân tộc
trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai, từ đó thực nghiệm một số biện pháp khắc
phục những khó khăn tâm lý đó (Nguyễn Huy Toàn, 2011).
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Huy Toàn (2011) với đề tài “Kỹ
năng giao tiếp của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân II” nghiên
11
cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp của học viên trường Trung cấp Cảnh sát
nhân dân II về một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng lắng nghe, kỹ năng diễn
đạt, kỹ năng điều khiển trong giao tiếp và tiến hành một số biện pháp thực
nghiệm đối chứng (Nguyễn Huy Toàn, 2011).
Tác giả Bùi Thị Nguyên Hảo (2013) với luận văn thạc sĩ về “Thực trạng
kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở thị xã Dĩ An” đã
đánh giá về kỹ năng giao tiếp, phát hiện những khó khăn trong quá trình giao
tiếp sư phạm của giáo viên mầm non tại Bình Dương và từ đó đề xuất một số
biện pháp để cải thiện và phát triển ( Bùi Thị Nguyên Hảo, 2013).
Bên cạnh đó, có thể kể đến một số bài báo khoa học như “Một số đặc
điểm giao tiếp của học viên tham gia các lớp đào tạo giáo viên khoa học xã
hội nhân văn quân sự cấp phân đội” (tạp chí Tâm lý học số 12/2006) của tác
giả Trương Quang Học (Học viện Chính trị quân sự) nghiên cứu các đặc điểm
GT sư phạm, qua đó cung cấp hệ thống lý luận về những đặc điểm đặc trưng
trong giao tiếp của học viên tham gia các lớp đào tạo giáo viên khoa học xã
hội nhân văn quân sự cấp phân đội tại Học viện Chính trị quân sự (Trương
Quang Học, 2006).
Năm 2006, bài viết “Thực trạng kỹ năng giao tiếp của cán bộ chính trị
trong hoạt động tuyên truyền ở đơn vị cơ sở quân đội hiện nay” (tạp chí Tâm
lý học số 12-2006) của tác giả Nguyễn Hoàng Lân (Học viện Chính trị quân
sự) đã đánh giá một số kỹ năng của cán bộ chính trị trong công tác tuyên
truyền trong giao tiếp như kỹ năng tiếp xúc, thiết lập quan hệ, kỹ năng biết
cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng
thuyết phục, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp (Nguyễn Hoàng Lân,
2006).
Năm 2010, tác giả Phan Thị Mai Hương (Viện Tâm lý học) và bài báo
“Giao tiếp giữa lãnh đạo và công nhân trong các doanh nghiệp hiện nay” đăng
trên Tạp chí Tâm lý học số 8/2010 đã đưa ra kết quả nghiên cứu về mức độ,
12
phạm vi, nội dung GT và đối tượng GT trong mối quan hệ GT giữa người
lãnh đạo doanh nghiệp và công nhân (Phan Thị Mai Hương, 2010).
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên
Facebook
Với sự bùng nổ về khoa học công nghệ hiện nay, mạng xã hội mà đặc
biệt là FB đã chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Do đó,
những nghiên cứu về mạng xã hội, FB hay là những vấn đề trong cách sử
dụng, giao tiếp trên FB cũng bắt đầu được chú trọng.
1.1.2.1. Ở nước ngoài
Năm 2004, Dennis Mazalin và Susan Moore, đã phân tích hành vi sử
dụng Internet của lứa tuổi thanh niên có liên quan với sự thu hẹp lại vòng tròn
giao tiếp trong gia đình và gia tăng trầm cảm, cô đơn xã hội của cá nhân
(Dennis Mazalin, Susan Moore, 2004).
Năm 2009, trong một nghiên cứu, nhóm tác giả Madge, Meek, Wellens,
Hooley đã chỉ ra mục đích sinh viên sử dụng FB để giao tiếp với bạn bè, thể
hiện cái tôi trên các mối quan hệ trên mạng xã hội (Madge, Meek, Wellens,
Hooley, 2009).
Năm 2012, tác phẩm “Thái độ của sinh viên Đại học đối với việc sử
dụng MXH” của Prof. Dr. BahireEfe ở Thổ Nhĩ Kỳ đã cho thấy phần lớn sinh
viên cảm thấy vui khi sử dụng MXH với các hoạt động giải trí, giao, tiếp, học
tập (BahireEfe ÖZAD, 2012).
Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Chen, B., Bryer, T. vào năm
2012 tại ĐH Central Florida (Hoa Kỳ) chỉ ra rằng, FB giúp SV dễ dàng tạo ra
các mối liên kết ảo giữa các cá nhân, xây dựng và bộc lộ cho mình một danh
tính, tạo ra các mối liên kết ảo với nhau và thông qua đó, học hỏi, trao đổi,
lĩnh hội kiến thức và kinh nghiệm xã hội (Chen, B., Bryer, T., 2012).
Năm 2016, trong công bố khoa học “On the FB dependence and it’s
negative effects on university students’ work: A multi-group analysis” nhóm
13
tác giả G. Gorghiu, C.Pribeanu, V. Lamanauskas đã nghiên cứu này là để đo
lường và nghiên cứu mối quan hệ giữa FB và hậu quả tiêu cực của việc sử
dụng quá mức của sinh viên. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mạng lưới FB càng
lớn thì tần suất và thời lượng sử dụng FB càng nhiều, mức độ ảnh hưởng đến
việc học càng cao (G. Gorghiu, C.Pribeanu, V. Lamanauskas, 2016).
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Tháng 4/2017, thông tin công bố tại Hội thảo “Phát ngôn gây thù ghét và
các giải pháp hướng tới môi trường MXH an toàn và giải pháp bền vững” của
Chương trình nghiên cứu Internet và Xã hội (VPIS) cho thấy, 78% người
dùng mạng tại Việt Nam khẳng định từng là nạn nhân hoặc biết những trường
hợp phát ngôn gây thù ghét trên MXH; 61,7% người dùng MXH từng chứng
kiến hoặc trở thành nạn nhân của trò nói xấu, phỉ báng, bôi nhọ danh dự;
46,6% từng bị vu khống, bịa đặt thông tin (Hoàng Phương, 2017).
Năm 2013, tác giả Đào Lê Hòa An với bài viết “Nghiên cứu về hành vi
sử dụng FB của con người – một thách thức mới cho tâm lí học hiện đại” đã
chỉ ra việc sử dụng mạng xã hội hiện nay là một tất yếu với sự dễ dàng trong
cách sử dụng, tiếp cận và những lợi ích FB đem lại. Đồng thời theo đó là
những hệ lụy nếu người dùng sử dụng bị phụ thuộc (Đào Lê Hòa An, 2013).
Năm 2010, thông qua việc nghiên cứu nhu cầu, mục đích và hình thức sử
dụng mạng xã hội, tác giả Nguyễn Thị Hậu và bài viết “Mạng xã hội với lối
sống của giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh” đã nêu rõ những ảnh hưởng của
mạng xã hội đến lối sống giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số
biện pháp giúp các bạn trẻ có thể cải thiện được việc sử dụng MXH của mình
(Nguyễn Thị Hậu, 2013).
Năm 2011, tác giả Lê Thị Nhị và đề tài “Nghiên cứu đề xuất xây dựng
MXH học tập tại Việt Nam” đã rút ra được một số lý do để xây dựng MXH
học tập ở Việt Nam nhằm tận dụng những ích lợi, độ phổ rộng của MXH
cũng như các thách thức khi áp dụng mô hình này (Lê Thi ̣ Nhị, 2011).
14
Năm 2013, trong tác phẩm “Internet: Mạng lưới xã hội và sự thể hiện
bản sắc” tác giả Nguyễn Thị Phương Châm đã phân tích, đánh giá thực trạng
phát triển của Internet, những tác động của nó đến đời sống xã hội hiện tại.
(Nguyễn Thị Phương Châm, 2013)
Năm 2013, luận văn Thạc sĩ của tác giả Đặng Thị Nga với đề tài “Nhu
cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Thái Bình”, đã
khái quát chung về tình hình sử dụng MXH của sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm Thái Bình, chỉ ra vai trò quan trọng của mạng xã hội đối với đời sống,
học tập của sinh viên (Đặng Thị Nga, 2013).
Trong nghiên cứu vào năm 2017, tác giả Hà Diệu Linh với đề tài luận
văn Thạc sĩ “Hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Khánh Hòa” đã nghiên cứu về thực trạng nhận thức, biểu hiện về hành vi giao
tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa; tìm hiểu về
những yếu tố ảnh hưởng và qua đó, đề ra một số biện pháp để nâng cao hành
vi giao tiếp trên mạng xã hội cho sinh viên (Hà Diệu Linh, 2017).
Năm 2018, luận văn Thạc sĩ “Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Đại học Hải Dương” của Nguyễn Thị Bắc đã nghiên cứu về thực trạng sử
dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải Dương, từ đó, đề xuất
một số biện pháp để sinh viên có thể sử dụng mạng xã hội một cách tích cực
và hiệu quả (Nguyễn Thị Bắc, 2018).
Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
cũng như thực trạng sử dụng, giao tiếp trên mạng xã hội. Các công trình
nghiên cứu trên đã đưa ra được những lý luận rất quan trọng về giao tiếp, kỹ
năng giao tiếp, sức ảnh hưởng của mạng xã hội, thực trạng về hành vi giao
tiếp, hành vi sử dụng mạng xã hội của một số nhóm khách thể cụ thể. Tuy
nhiên, vẫn chưa có đề tài nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên FB, đặc biệt
với khách thể nghiên cứu là sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân.
15
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Kỹ năng giao tiếp
1.2.1.1. Kỹ năng
Trong Tâm lý học tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng, có thể
phân loại thành hai quan điểm được tập trung nghiên cứu.
Quan điểm thứ nhất coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động
hay hoạt động. Quan niệm này cho rằng kỹ năng là phương tiện thực hiện
hành động trên thực tiễn phù hợp với mục đích, phương thức và các điều kiện
để thực hiện hành động đó. Trong đó, cá nhân phải có tri thức về hành động
và thực hiện được nó trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau. Có thể kể
đến một số tác giả như:
Ph.N. Gonobolin cho rằng: “Kỹ năng là những phương thức tương đối
hoàn chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các hành động
này được hình thành trên cơ sở các tri thức và kỹ xảo – những cái được con
người lĩnh hội trong quá trình hoạt động” (Ph.N.Gonobolin, 1973).
V.A. Krutretxki khẳng định “Kỹ năng là phương thức thực hiện hoạt
động – cái mà con người lĩnh hội được” (V.A.Krutretxki, 1980).
Quan niệm thứ hai cho rằng kỹ năng không chỉ là mặt kỹ thuật của hành
động mà còn là một biểu hiện về năng lực của con người trong mối quan hệ
với mục đích, phương tiện, cách thức tiến hành hành động. Kỹ năng vừa có
tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích. Theo
quan điểm này, có thể kể đến một số định nghĩa như sau:
Định nghĩa của K.K. Platonov (1967) cho rằng: “Kỹ năng là khả năng
của con người thực hiện một hành động bất kỳ nào đó hay các hành động trên
cơ sở của kinh nghiệm – những cái đã được lĩnh hội từ trước. Kỹ năng được
hình thành trên cơ sở của tri thức và các kỹ xảo” (K.K.Platonov, 1967).
A.V.Petropxki (1990) định nghĩa: “Kỹ năng là năng lực sử dụng các tri
thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc
16
tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận
hay thực tiễn nhất định” (Hồ Ngọc Đại, 1983). Do đó, kỹ năng có mức độ ổn
định cao và mang tính khái quát, tính linh hoạt.
A.V.Barabansicov cho rằng: “Kỹ năng là khả năng sử dụng tri thức và
các kỹ xảo của mình một cách có mục đích và sáng tạo trong quá trình của
hoạt động thực tiễn. Khả năng này là khả năng tự tạo của con người”
(K.K.Platonov, 1967).
Tại Việt Nam, kỹ năng cũng là một phạm trù được tập trung nghiên cứu.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thức tế” (Trung tâm từ điển
Ngôn ngữ, 1992).
Tác giả Lê Văn Hồng quan điểm: “Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến
thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới”
(Lê Văn Hồng, 2009).
Theo Vũ Dũng, “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thưc hiện những
nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ kỹ năng, công việc được hoàn thành trong
những điều kiện, hoàn cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thhao tác
chưa thuần thục, và còn phải tập trung chú ý căng thẳng. Kỹ năng được hình
thành qua luyện tập” (Vũ Dũng, 2008).
Tác giả Nguyễn Văn Đồng (2010) cho rằng: “Kỹ năng là năng lực vận
dụng những tri thức đã được lĩnh hội để thực hiện có hiệu quả một hoạt động
tương ứng trong những điều kiện cụ thể” (Nguyễn Văn Đồng, 2010).
Tác giả Hoàng Anh cho rằng: “Kỹ năng là khả năng sử dụng tri thức và
các kỹ xảo của mình một cách có mục đích và sáng tạo trong quá trình của
hoạt động thực tiễn. Khả năng này là khả năng tự tạo của con người” (Hoàng
Anh, Đỗ Thị Châu và Nguyễn Thạc, 2007).
17
Huỳnh Văn Sơn cho rằng “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một
hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã
có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ
đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của
con người” (Huỳnh Văn Sơn, 2011).
Như vậy, ta thấy, dù nghiên cứu dưới góc độ nào, kỹ năng luôn được đặt
trong mối quan hệ với những tri thức đã được cá nhân hiểu, nắm vững và mức
độ hiệu quả trong việc triển khai thực hiện những hành động đó trong những
điều kiện cụ thể. Từ đó, đánh giá được năng lực của cá nhân trong thực tiễn.
Trong đề tài này, tác giả thống nhất ý kiến với khái niệm của tác giả Nguyễn
Văn Đồng về kỹ năng. Theo đó, kỹ năng là năng lực vận dụng tri thức đã
được lĩnh hội để thực hiện có hiệu quả một hoạt động tương ứng trong những
điều kiện cụ thể.
1.2.1.2. Giao tiếp
Cùng với hoạt động, giao tiếp đóng vai trò quyết định trong sự hình
thành và phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi người. Giao tiếp cũng là điều
kiện thiết yếu của mọi hoạt động.
Theo các nhà Tâm lý học xã hội, giao tiếp thường được xem là quá trình
thông tin bao gồm việc thực hiện và duy trì sự liên hệ giữa các cá nhân.
Ở góc độ tiếp cận nhận thức, L.X.Vygotxki cho rằng giao tiếp là quá
trình chuyển giao tư duy và cảm xúc (L.X.Vygotxki, 1997).
K.K.Platonov khẳng định: “Giao tiếp là mối liên hệ có ý thức với con
người trong cộng đồng loài người”. Xem xét giao tiếp là sự thể hiện mối quan
hệ giữa con người với con người hay giữa nhân cách này với nhân cách khác
trong mối quan hệ liên nhân cách (Huỳnh Văn Sơn, 2011).
B.Ph.Lomov cho rằng: “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa
con người với tư cách chủ thể” (B.Ph.Lomov, 2000).