11097_Thực trạng thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

TRẦN XUÂN THẢO

THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

TRẦN XUÂN THẢO

THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
………………………………………………………………………. 1
TÓM TẮT LUẬN VĂN
……………………………………………………………… 1
PHẦN MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu …………………………………………………………… 1
2. Mục tiêu nghiên cứu
………………………………………………………………………… 2
3. Đối tượng nghiên cứu
………………………………………………………………………. 2
4. Phạm vi nghiên cứu
…………………………………………………………………………. 3
5. Phương pháp nghiên cứu
…………………………………………………………………. 3
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài……………………………….. 3
7. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
……………………….. 3
8. Bố cục của Luận văn ……………………………………………………………………….. 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ VÀ
QUẢN LÝ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM …………………………… 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch đô thị và quản lý quy hoạch
đô thị ………………………………………………………………………………………………….. 7
1.2. Vai trò và ý nghĩa của quy hoạch đô thị ………………………………………… 9
1.3. Quy định pháp luật về quy hoạch đô thị
………………………………………. 10
1.3.1. Thẩm quyền quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị
……………………. 11
1.3.2. Quy định về lập quy hoạch đô thị
……………………………………………….. 14
1.3.3. Thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị
…………………………………… 18
1.3.4. Điều chỉnh quy hoạch đô thị ……………………………………………………… 20
1.3.5. Tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị …………………………………………… 22
1.4. Quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị…………………………………………. 23
1.5. Kinh nghiệm về quy hoạch đô thị tại một số quốc gia trên thế giới
.. 25
1.5.1. Tại Châu Âu …………………………………………………………………………….. 26
1.5.2. Tại Châu Á ………………………………………………………………………………. 26
1.5.3. Tại Châu Đại Dương ………………………………………………………………… 29
Kết luận Chương 1
…………………………………………………………………… 30
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH QUY HOẠCH ĐÔ THỊ TẠI TỈNH BẾN
TRE VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
…………………………………. 31
2.1. Tổng quan về tình hình lập quy hoạch đô thị tại tỉnh Bến Tre ……… 31
2.2. Tổng quan về tình hình quản lý nhà nước đối với quy hoạch đô thị
tại tỉnh Bến Tre
…………………………………………………………………………………. 34
2.3. Đánh giá chung về tình hình thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị
và quản lý quy hoạch đô thị tại tỉnh Bến Tre ……………………………………… 35
2.3.1. Những kết quả đạt được ……………………………………………………………. 35
2.3.2. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về quy hoạch đô thị …….. 36
2.4. Những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với quy hoạch đô
thị tại tỉnh Bến Tre ……………………………………………………………………………. 38
2.5. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối
với quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre ………………………………….. 41
2.5.1. Hoàn thiện pháp luật về quy hoạch đô thị
…………………………………… 41
2.5.2. Hoàn thiện quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị ………………………. 42
Kết luận Chương 2
…………………………………………………………………… 45
KẾT LUẬN CHUNG
……………………………………………………………….. 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………….. 1
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
…………………. 1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Trần Xuân Thảo, mã số học viên: 7701270112A – là học viên
lớp Cao học Khóa 27 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài
“Thực trạng thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh Bến
Tre” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này
là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ
Trần Huỳnh Thanh Nghị. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến,
quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn
nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử
dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.

Học viên thực hiện

Trần Xuân Thảo

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Hiện nay, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra với tốc độ khá
nhanh, các đô thị được hình thành nhưng những điều kiện cần thiết để đô thị
phát triển bền vững vẫn chưa kịp đáp ứng. Các văn bản luật trên lĩnh vực quy
hoạch và quản lý quy hoạch đô thị ra đời cơ bản đầy đủ nhưng việc áp dụng
vẫn chưa thật sự tốt nên hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực này
chưa cao. Bên cạnh đó, những quy định của các văn bản luật vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, bất cập và chồng chéo dẫn đến khó khăn trong quá trình thực
thi. Trên địa bàn tỉnh Bến Tre, việc áp dụng các văn bản luật để xây dựng quy
hoạch và quản lý quy hoạch đô thị được quan tâm nhưng vẫn còn những hạn
chế cần phải khắc phục.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Năm 1986 đánh dấu cho sự kiện Việt Nam chính thức mở cửa để bước
vào thị trường toàn cầu, kể từ đây, chúng ta bắt đầu chinh phục giấc mơ của sự
phát triển kinh tế dù còn nhiều bỡ ngỡ nhưng từng bước được khắc phục và cải
thiện. Trước đây quy hoạch đô thị là câu chuyện mới, là đất nước đi lên từ nền
nông nghiệp cùng với văn hóa Á Đông, chúng ta đa phần đều thiếu sót khi xây
dựng nền móng vấn đề trong đó bước quy hoạch là bước nền tảng. Về sau, khi
quỹ đất có hạn trong khi nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng cùng với yêu cầu khi
hòa vào nền kinh tế toàn cầu thì quy hoạch đô thị càng trở nên quan trọng và
cần thiết. Vấn đề quy hoạch đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết như cơ
sở hạ tầng, khu công nghiệp, môi trường, giao thông, khu dân cư… muốn kêu
gọi đầu tư chúng ta phải giải quyết những tồn đọng này và đặt ra khung quy
chuẩn cho hoạt động quy hoạch. Trong đó, bên cạnh Luật Xây dựng năm 2003
và được thay thế bởi Luật Xây dựng năm 2014 thì Luật Quy hoạch đô thị là
công cụ cơ bản và quan trọng nhất để điều chỉnh khung pháp lý về vấn đề quy
hoạch. Hiện nay, Quốc hội vừa mới thông qua Luật Quy hoạch 2017 và bắt đầu
có hiệu lực từ năm 2019. Hiểu một cách sơ khởi rằng Luật Quy hoạch đưa ra
mô tả tổng thể về hoạt động quy hoạch trên cả nước và cả các ngành nghề liên
quan còn Luật Quy hoạch đô thị đưa ra mô tả chi tiết riêng về lĩnh vực quy
hoạch đô thị. Quay trở lại vấn đề sau khi đánh giá tầm quan trọng của Luật Quy
hoạch đô thị là khung sườn cho hoạt động quy hoạch và quản lý đô thị thì vấn
đề tiếp theo cần đặt ra là thực tiễn áp dụng Luật này như thế nào. Ở mỗi địa
phương có kế hoạch và định hướng cũng như thế mạnh khác nhau, vì thế kế
hoạch quy hoạch của mỗi địa phương là khác nhau. Chúng ta có Luật Quy
hoạch đô thị là khung sườn thì mỗi địa phương sẽ có những hình thể khác nhau
để phát triển phù hợp với địa phương mình.
Quy hoạch đô thị là quá trình lâu dài, phải phù hợp với đường lối phát
triển của đất nước và cả phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, vừa mang
tính vĩ mô mà vừa cần thực tế. Cho nên việc tính toán, phát triển các dự án
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

2
ngoài việc dựa vào các cơ quan nhà nước còn phải chờ vào việc đánh giá, góp
ý của người dân. Hàng loạt vấn đề liên quan đến quy hoạch đô thị nổ ra như
câu chuyện về Thủ Thiêm, về đặc khu kinh tế, sự can thiệp của báo chí, mạng
xã hội thì vấn đề về quy hoạch càng trở nên bức thiết. Vậy thì ý nghĩa của việc
quy hoạch như thế nào, tác động thế nào đến người dân, và phát triển thế nào
mới đảm bảo được sự cân bằng giữa kinh tế và môi trường sống.
Như đã trình bày ở trên, bởi lẽ việc quy hoạch đô thị còn mang tính cá
biệt tại từng địa phương cũng như để xoáy sâu phân tích thì tác giả xin phép
chọn địa phương Bến Tre cũng là quê hương của tác giả để có cái nhìn cụ thể
hơn về vấn đề quy hoạch đô thị tại tỉnh nhà. Thời gian qua, việc áp dụng pháp
luật về quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã có nhiều thành quả đáng
kể, góp phần chỉnh trang bộ mặt đô thị cũng như cải thiện đời sống cho người
dân. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, cũng còn bộc lộ không ít khuyết
điểm cũng như hạn chế. Tuy quy hoạch đã được công khai và các cơ quan có
thẩm quyền thường xuyên kiểm tra, quản lý nhưng vẫn xuất hiện những công
trình xây dựng không đúng quy hoạch hoặc không xin giấy phép xây dựng làm
ảnh hưởng đến quy hoạch đô thị. Xuất phát từ thực tế trên, Tác giả quyết định
chọn đề tài Thực trạng thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh
Bến Tre để làm Luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài Thực trạng thực thi pháp luật về quy hoạch đô
thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre nhằm phân tích một số nội dung của Luật Quy
hoạch đô thị và thực trạng thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị trên địa bàn
tỉnh Bến Tre, từ đó chỉ ra một số bất cập cũng như những khó khăn trong quá
trình thực thi và đề xuất những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hơn pháp luật
về quy hoạch đô thị và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với
quy hoạch đô thị ở tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật hiện
hành về công tác quy hoạch đô thị và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bến Tre.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

3
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở các quy định pháp luật
về quy hoạch đô thị, cụ thể là Luật Quy hoạch đô thị 2009, Luật Xây dựng năm
2014 và các văn bản có liên quan đến quy hoạch đô thị ở Việt Nam. Bên cạnh
đó, không gian nghiên cứu của Luận văn chỉ được tiến hành trên địa bàn tỉnh
Bến Tre.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Luận văn này, Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản như sau: Phương pháp phân tích luật học được sử dụng để phân tích
các quy định pháp luật thực định trong nước đang điều chỉnh các vấn đề liên
quan đến quy hoạch đô thị tại Việt Nam. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng
phương pháp so sánh luật học, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp,
phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài sẽ cho người đọc có được cái nhìn tổng quan về quy hoạch đô thị,
quản lý quy hoạch đô thị trên cơ sở khoa học, từ đó sẽ làm rõ một số vấn đề
liên quan đến những hạn chế, bất cập trong quá trình lập quy hoạch và quản lý
quy hoạch đô thị, đặc biệt là những hạn chế trong quá trình xử lý, giải quyết
các vụ việc liên quan đến xây dựng trái phép, không theo quy hoạch từ đó đề
ra những kiến nghị của bản thân để việc quản lý quy hoạch được thực hiện tốt
hơn trong thời gian tới.
7. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong điều kiện phát triển của đất nước hiện nay, quá trình đô thị hóa là
tất yếu. Kéo theo đó sẽ là những vấn đề liên quan đến môi trường, không gian
đô thị, phân bố dân cư, quy định về kiến trúc các công trình xây dựng, quy
hoạch từng khu vực như: trung tâm đô thị, công viên, khu vực dân cư,… Do đó
việc quy hoạch chung và quy hoạch đô thị là hết sức cần thiết để đảm bảo sự
phát triển. Với tầm quan trọng như thế, thời gian qua đã có nhiều đề tài, công
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

4
trình nghiên cứu về công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch và pháp luật về quy
hoạch đô thị, điển hình như:
– Cuốn sách “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi” xuất bản năm 2004 của
Tiến sĩ Võ Kim Cương – Nhà Xuất bản Xây dựng.
– Cuốn sách “Phương pháp tiếp cận mới về quy hoạch và quản lý đô thị”
xuất bản năm 2005 của tác giả Nguyễn Đăng Sơn, hiện nay là Phó Viện trưởng
của Viện Nghiên cứu Đô thị và Phát triển hạ tầng (IUSID).
– Giáo trình “Quy hoạch đô thị và điểm dân cư” của Thạc sĩ Kiến trúc sư
Nguyễn Ngọc Uyên và Thạc sĩ Kiến trúc sư Nguyễn Quang Vinh – Trường Đại
học Mở thành phố Hồ Chí Minh.
– Giáo trình “Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị” của Giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Thế Bá (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) chủ biên, Nhà Xuất bản
Xây dựng tái bản năm 2004.
– Giáo trình “Quản lý nhà nước về đô thị” do Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm
Kim Giao làm chủ biên, Học Viện Hành chính – Học viện Chính trị – Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007.
– Bài viết “Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng đồng – Những vấn
đề cần nghiên cứu cho việc áp dụng phương pháp tại Việt Nam” của Nghiên
cứu sinh Kiến trúc sư Tạ Quỳnh Hoa – Giảng viên Khoa Kiến trúc – Quy hoạch,
Trường Đại học Xây dựng đăng trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng –
Trường Đại học Xây dựng, số 06, tháng 12 – 2009.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phân tích, đánh giá
tình hình, thực trạng việc quy hoạch và quản lý quy hoạch một cách tổng thể,
chưa có công trình nào phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về quy
hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre như nội dung của Luận văn mà Tác giả
nghiên cứu dưới đây.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
của Luận văn được chia thành 2 Chương :
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

5
Chương 1: Lý luận chung về quy hoạch đô thị và quản lý quy hoạch đô thị
tại Việt Nam.
Chương 2: Tình hình quy hoạch đô thị tại tỉnh Bến Tre và một số giải
pháp hoàn thiện.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

7
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ VÀ QUẢN
LÝ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch đô thị và quản lý quy hoạch
đô thị
Khi luận bàn về khái niệm đô thị, hiện tồn tại nhiều quan niệm khác nhau
giữa các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, có quan niệm cho rằng : Đô thị là một
không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong
những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.1
Dưới góc độ khoa học pháp lý, Khoản 1 Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị
năm 2009 định nghĩa: Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ
cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm
chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy
sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa
phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của
thị xã; thị trấn.
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu hết đô thị đều có điểm
chung là khu vực tập trung đông dân cư, chủ yếu hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp, là trung tâm kinh tế – văn hóa – xã hội của một địa phương,… Theo Nghị
quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về phân loại đô thị, tại Việt Nam đô thị được phân chia thành 6 nhóm: đô
thị loại đặc biệt, đô thị loại I, II, III, IV, V.
Nếu như trước đây, quy hoạch đô thị được quan niệm như là thiết kế
một đô thị, tổ chức, bố trí hình dạng vật thể của đô thị, là sự lắp ráp mô hình
theo ý tưởng hoặc bản vẽ đã được đưa ra, chủ yếu quan tâm đến việc xây dựng
các công trình thì ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội, quan niệm
đó đã không còn phù hợp. Theo quy định tại Luật quy hoạch đô thị năm 2009,
quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ
thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập

1 Từ điển Bách Khoa Việt Nam, NXB Hà Nội, 1995
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

8
môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông
qua đồ án quy hoạch đô thị.2 Còn đồ án quy hoạch đô thị là tài liệu thể hiện nội
dung của quy hoạch đô thị, bao gồm các bản vẽ, mô hình, thuyết minh và quy
định quản lý theo quy hoạch đô thị.3
Như vậy, quy hoạch đô thị được hiểu là các hoạt động tổ chức, quản lý,
kiểm soát môi trường sống trong đô thị, là cách thức tổ chức, sắp xếp không
gian, thiết lập kết cấu hạ tầng và kiến trúc của đô thị nhằm giúp cho đô thị phát
triển bền vững, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo yêu cầu
quốc phòng – an ninh, giảm thiểu tối đa các tác động có hại của quá trình đô thị
hóa, cung cấp cho người dân đô thị một môi trường sống thích hợp, đáp ứng
được các nhu cầu của họ.
Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện các chương trình, kế hoạch đầu tư xây
dựng phát triển đô thị, quy hoạch chuyên ngành trong phạm vi đô thị, kế hoạch
sử dụng đất đô thị, quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trong đô thị,
thực hiện quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị hoặc thực hiện các
hoạt động khác có liên quan đến quy hoạch đô thị phải tuân thủ quy hoạch đô
thị đã được phê duyệt và Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị, đây gọi
là nguyên tắc tuân thủ quy hoạch đô thị.4
Trong xây dựng và phát triển đô thị, công tác quy hoạch, quản lý quy
hoạch xây dựng có vai trò rất quan trọng, đây là vấn đề mang tính chiến lược
và phải được thực hiện sớm làm cơ sở cho đầu tư xây dựng các công trình,
chỉnh trang và phát triển đô thị. Đây cũng là một trong những giải pháp để quản
lý xây dựng đô thị phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với tình
hình thực tế tại địa phương.
Quản lý quy hoạch đô thị là các biện pháp, cách thức của các cơ quan chức
năng vận dụng các công cụ quản lý nhằm đảm bảo các dự án đầu tư, các công
trình xây dựng,… thực hiện đúng quy hoạch đã được lập và phê duyệt, tránh

2 Luật Quy hoạch đô thị 2009, Khoản 4 Điều 3
3 Luật Quy hoạch đô thị 2009, Khoản 6 Điều 3
4 Luật Quy hoạch đô thị 2009, Điều 5
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

9
việc quy hoạch đã có sẵn nhưng việc thực thi lại đi theo hướng khác. Bên cạnh
đó, quản lý quy hoạch đô thị cũng nhằm để kịp thời phát hiện ra những vấn đề
bất cập, những điểm bất hợp lý trong quy hoạch để đề xuất, kiến nghị điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Một điều tất yếu để quản lý quy hoạch
đô thị được thực hiện tốt là cần phải có một quy hoạch tương đối hoàn chỉnh,
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, có tính khả thi cao và hạn chế
tối đa khả năng dẫn đến “quy hoạch treo”; có một chính quyền thật sự nghiêm
minh, công bằng, có tính chuyên nghiệp và thực thi dân chủ tối đa. Quản lý quy
hoạch đô thị là trách nhiệm của chính quyền các cấp, của cơ quan chức năng,
tuy nhiên, cần phải có sự tham gia của cộng đồng cư dân trong đô thị, vì Nhà
nước không thể quản lý hết do nguồn lực còn hạn chế. Do đó, chính cư dân đô
thị sẽ là người phát hiện, trình báo và kiến nghị việc xử lý những trường hợp
sai quy hoạch. Điều này cũng phần nào thể hiện được bản chất chính quyền của
nước ta là chính quyền của dân, do dân và vì dân.
1.2. Vai trò và ý nghĩa của quy hoạch đô thị
Tính đến hết tháng 5/2018, Việt Nam có 813 đô thị các loại, bao gồm cả
các đô thị đặc biệt là khu kinh tế, khu công nghiệp… tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng
37,5%.5 Những thách thức về sử dụng tài nguyên, dân số, môi trường, kinh tế,
an sinh xã hội, văn hóa… đòi hỏi việc quản lý đô thị phải được tiếp cận một
cách toàn diện và hệ thống. Như đã nhận định, đô thị là trung tâm kinh tế – xã
hội và chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của địa phương, của một vùng
hay của cả nước. Nếu như NewYork (Mỹ), Luân Đôn (Anh), Paris (Pháp),
Tokyo (Nhật Bản), Bắc Kinh (Trung Quốc)… là những trung tâm kinh tế, tài
chính có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ trong nước mà còn tác động đến cả nền
kinh tế của thế giới thì ở Việt Nam, thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng, thành phố Cần Thơ… được xem như
đầu tàu kinh tế của cả nước. Theo số liệu thống kê tại hội nghị tổng kết, công
bố tổng thu ngân sách năm 2017 của 5 thành phố trực thuộc Trung ương thì

5 http://baodauthau.vn/bat-dong-san/het-nam-2017-ty-le-do-thi-hoa-dat-khoang-
375-61951.html
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

10
trong năm 2017, 5 thành phố này đã thu đạt 621.048 tỉ đồng, tương đương
56,25% thu ngân sách cả nước. Nếu chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh thì
đã đóng góp gần 22% GDP và khoảng 28% tổng thu ngân sách cả nước. Không
chỉ đóng góp về kinh tế, các đô thị còn là trung tâm chính trị, hành chính của
tỉnh, huyện và là bộ mặt của địa phương hay cả khu vực.
Tuy nhiên, ở nước ta đang vướng phải một vấn đề là quá trình đô thị hóa
nhanh, các đô thị ngày càng nhiều nhưng chất lượng không đảm bảo, cấu trúc
đô thị còn nhiều bất ổn, phần lớn diện tích đất phục vụ cho nhu cầu nhà ở. Do
đó, việc quy hoạch để đô thị phát triển theo hướng tích cực, giúp các cơ quan
chức năng có căn cứ quản lý theo quy hoạch là hết sức cần thiết. Quy hoạch đô
thị sẽ giúp: đảm bảo phân bố hợp lý khu vực sản xuất trong đô thị với khu vực
sống của cư dân đô thị, đặc biệt là sắp xếp khu vực dành cho các khu, cụm công
nghiệp để hạn chế tối đa những tác động không tốt đến cư dân trong quá trình
sản xuất đồng thời tạo quỹ đất thu hút đầu tư; tạo lập môi trường sống trong
sạch, hài hòa cho cư dân thông qua việc phân bố dân cư và quy định về sử dụng
đất trong đô thị, quy hoạch các khu giải trí, công viên, trung tâm và các dịch vụ
công; xây dựng một nét đặc trưng của đô thị với những quy định về chiều cao,
màu sắc, quy mô,… của các công trình và đặc biệt là đảm bảo không để xảy ra
sự xung đột giữa các công trình với nhau. Bên cạnh đó, với sự phát triển kinh
tế mạnh mẽ, sự đầu tư ngày càng lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì
dự báo quá trình đô thị hóa sẽ diễn ra ngày càng nhanh. Do đó, cần phải có sự
định hướng, nghiên cứu về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội để xây dựng
quy hoạch đô thị có tính khả thi, tránh được tình trạng khi đã hình thành khu
vực đô thị thì mới bắt đầu tiến hành xây dựng quy hoạch.
1.3. Quy định pháp luật về quy hoạch đô thị
Pháp luật hiện hành của nước ta đã có nhiều quy định về quy hoạch và
quản lý phát triển đô thị. Trên thế giới, pháp luật các nước đề cao tính công
cộng, là đặc điểm quan trọng của đô thị, đưa ra các nguyên tắc quản lý và sử
dụng không gian đô thị, kể cả không gian ngầm; thông qua kiến trúc sư trưởng
nhằm quản lý hiệu quả cảnh quan, kiến trúc đô thị, bảo đảm bản sắc đô thị phù
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

11
hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc. Hầu hết các nước đều quản lý thực
hiện quy hoạch thông qua việc cấp giấy phép quy hoạch. Bên cạnh đó, luật
pháp các nước đều đưa ra các nguyên tắc để cộng đồng tham gia có hiệu quả
vào việc xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Chính vì vậy, việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch
đô thị là cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động quy hoạch và
tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị hiệu lực, hiệu quả. Sau một thời gian xây
dựng, ngày 17 tháng 6 năm 2009 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Quy hoạch đô thị. Luật có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Sự ra đời của Luật Quy hoạch
đô thị giúp cho các cơ quan chức năng có căn cứ pháp lý để xây dựng quy hoạch
đô thị, từ đó lập đồ án quy hoạch đô thị giúp tạo lập môi trường sống thích hợp
cho cư dân đô thị.
Tại Điều 13 Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014 của Quốc
hội có nêu quy hoạch xây dựng gồm có: Quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị,
quy hoạch khu chức năng đặc thù, quy hoạch nông thôn và quy hoạch đô thị
được thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị. Như vậy, quá
trình thực hiện quy hoạch đô thị sẽ căn cứ vào Luật Quy hoạch đô thị và các
văn bản có liên quan.
1.3.1. Thẩm quyền quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị
Tại Việt Nam, trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị theo hướng phân
cấp cho chính quyền địa phương nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính
chủ động cho các địa phương trong việc quản lý phát triển đô thị thuộc phạm
vi của mình. Theo đó, trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị được giao cho
các cơ quan sau 6:
– Bộ Xây dựng, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
lập quy hoạch liên quan đến địa giới hành chính của hai tỉnh, thành phố trực

6 Xem : Điều 19 Luật Quy hoạch đô thị 2009.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

12
thuộc Trung ương trở lên, quy mô quy hoạch tương đương với đô thị loại III
trở lên và quy hoạch khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
– Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: lập quy hoạch
chung thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch chung đô thị mới, quy
hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật thành phố trực thuộc Trung ương, quy
hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết các khu vực có phạm vi liên quan đến địa
giới hành chính của hai quận, huyện trở lên, khu vực trong đô thị mới và khu
vực có ý nghĩa quan trọng.
– Ủy ban nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã: lập quy hoạch chung
thành phố thuộc tỉnh, thị xã; quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết trong
phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý.
– Ủy ban nhân dân quận: lập quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết trong
phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý.
– Ủy ban nhân dân huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương: lập quy
hoạch chung, quy hoạch chi tiết thị trấn, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi
tiết trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý.
– Ủy ban nhân dân huyện thuộc tỉnh : lập quy hoạch chung, quy hoạch chi
tiết thị trấn.
Những quy định theo hướng phân cấp quản lý như trên là hợp lý vì chính
quyền địa phương là nơi nắm chắc được tình hình kinh tế – xã hội, xu hướng
phát triển cũng như tâm tư, nguyện vọng, phong tục, tập quán của người dân
tại địa phương. Từ đó, chính quyền địa phương sẽ có sự nghiên cứu, khảo sát,
định hướng cho sự phát triển của đô thị và việc lấy ý kiến của cư dân cũng sẽ
thuận lợi hơn nếu giao toàn bộ trách nhiệm cho chính quyền cấp trên hoặc Bộ
Xây dựng đảm nhận. Nhưng khó khăn ở đây có thể dễ nhận thấy là nguồn lực
và trình độ chuyên môn để tiến hành lập quy hoạch của địa phương còn rất hạn
chế, có rất ít cán bộ được đào tạo đúng những chuyên ngành phù hợp để thực
hiện công việc này.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

13
Ngoài chính quyền địa phương, Luật cũng cho phép chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư. Điều này
giúp cho chủ đầu tư có quyền quyết định về quy hoạch khu vực được giao theo
kế hoạch phát triển của mình, điều mà nếu chính quyền thực hiện có thể sẽ làm
kiềm hãm sự phát triển hoặc không phù hợp với kế hoạch của chủ đầu tư và có
thể tạo ra khu vực “quy hoạch treo” dẫn đến nhiều hệ lụy. Tuy nhiên, Luật cũng
đặt ra giới hạn cho chủ đầu tư về trách nhiệm lập quy hoạch đô thị. Cụ thể, chủ
đầu tư phải tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân
cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị để tránh làm phá vỡ quy
hoạch chung của địa phương hoặc có thể gây ra sự phản đối từ chính những
người dân ở trong khu vực này.7
Cũng theo hướng phân cấp nhiệm vụ cho địa phương lập quy hoạch thì
thẩm quyền quản lý quy hoạch cũng được giao về cho chính quyền địa phương,
mà cụ thể là cơ quan quản lý quy hoạch của từng cấp đảm nhiệm. Theo Nghị
định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ về “Quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh
doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển
nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở” thì Thanh tra viên xây dựng, Trưởng
đoàn thanh tra chuyên ngành xây dựng (của Bộ Xây dựng hoặc Sở Xây dựng),
Chánh Thanh tra Bộ Xây dựng, Chánh Thanh tra Sở Xây dựng, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã8 được quyền ra quyết định xử phạt các hành
vi vi phạm, bao gồm các hành vi như: Không lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoặc cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ hoặc đồ án quy hoạch
đô thị (Mục b, Khoản 3 Điều 27); Lấn chiếm, xây dựng công trình trên đất cây
xanh hiện có hoặc đã được xác định trong quy hoạch đô thị hoặc ngăn cản việc
trồng cây xanh theo quy định (Mục e Khoản 3 Điều 53); Phạt tiền từ 30.000.000

7 Luật Quy hoạch đô thị 2009, Khoản 1 Điều 20
8 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ, Chương VI, Điều
69 đến 78
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

14
đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật
sử dụng chung không tuân thủ quy hoạch đô thị, không có giấy phép xây dựng
theo quy định hoặc sai nội dung giấy phép xây dựng được cấp (Khoản 3 Điều
56);… Việc giao quyền quản lý và xử phạt cho chính quyền địa phương giúp
cho công tác về quy hoạch đô thị được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện
hơn trên thực tế. Bởi lẽ việc lập biên bản cũng như mời các ngành chức năng
cấp trên đến thụ lý hoặc chuyển về cấp trên trực tiếp ra quyết định xử phạt khi
phát hiện có hành vi vi phạm sẽ mất thêm nhiều thời gian và như vậy sẽ đi
ngược lại với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay.
1.3.2. Quy định về lập quy hoạch đô thị
Theo quy định pháp luật hiện hành, quy hoạch đô thị gồm các loại sau9:
– Quy hoạch chung: là việc tổ chức không gian, hệ thống các công trình
hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở cho một đô thị phù hợp với
sự phát triển kinh tế – xã hội của đô thị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát
triển bền vững.
– Quy hoạch phân khu: là việc phân chia và xác định chức năng, chỉ tiêu
sử dụng đất quy hoạch đô thị của các khu đất, mạng lưới công trình hạ tầng kỹ
thuật, công trình hạ tầng xã hội trong một khu vực đô thị nhằm cụ thể hóa nội
dung quy hoạch chung.
– Quy hoạch chi tiết: là việc phân chia và xác định chỉ tiêu sử dụng đất
quy hoạch đô thị, yêu cầu quản lý kiến trúc, cảnh quan của từng lô đất; bố trí
công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội nhằm cụ thể hóa nội
dung của quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chung.
Trong quá trình lập quy hoạch đô thị thì việc đầu tiên là lập nhiệm vụ quy
hoạch đô thị để từ đó lập đồ án quy hoạch đô thị. Nhiệm vụ lập quy hoạch đô
thị phải đáp ứng được các yêu cầu và mục tiêu phát triển của đô thị, của từng
khu vực lập quy hoạch để việc lập đồ án quy hoạch đô thị có tính khả thi. Nhiệm
vụ quy hoạch đô thị phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

9 Khoản 1 Luật Quy hoạch đô thị 2009
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

15
Về nguyên tắc, khi lập quy hoạch đô thị phải đảm bảo các yêu cầu sau:
– Cụ thể hoá định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia và
các quy hoạch vùng liên quan; phù hợp với mục tiêu của chiến lược, quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; bảo đảm tính thống
nhất với quy hoạch phát triển các ngành trong phạm vi đô thị; bảo đảm công
khai, minh bạch và kết hợp hài hoà giữa lợi ích quốc gia, cộng đồng và cá nhân.
– Dự báo khoa học, đáp ứng được yêu cầu thực tế và phù hợp với xu thế
phát triển của đô thị; tuân thủ quy chuẩn về quy hoạch đô thị và quy chuẩn khác
có liên quan.
– Bảo vệ môi trường, phòng ngừa hiểm hoạ ảnh hưởng đến cộng đồng, cải
thiện cảnh quan, bảo tồn các di tích văn hoá, lịch sử và nét đặc trưng địa phương
thông qua việc đánh giá môi trường chiến lược trong quá trình lập quy hoạch
đô thị. Quy hoạch phải tính toán đến những vấn đề có thể gây ảnh hưởng tiêu
cực đến đời sống của cư dân để có giải pháp hạn chế tối đa những ảnh hưởng
này, tạo lập môi trường sống tốt nhất có thể cho cư dân đô thị.
– Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sử dụng đất
nông nghiệp, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đất đô thị nhằm tạo ra nguồn lực
phát triển đô thị, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an
ninh và phát triển bền vững. Có định hướng về sử dụng đất đai trong đô thị,
phân bố hợp lý giữa khu vực dân cư và khu vực dịch vụ công, giải trí cũng như
bố trí quỹ đất thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
– Bảo đảm tính đồng bộ về không gian kiến trúc, hệ thống hạ tầng xã hội,
hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm; phát triển hài hoà giữa các khu vực
trong đô thị.
– Đáp ứng nhu cầu sử dụng nhà ở, công trình y tế, giáo dục, văn hoá, thể
thao, thương mại, công viên, cây xanh, mặt nước và công trình hạ tầng xã hội
khác.
– Đáp ứng nhu cầu sử dụng hạ tầng kỹ thuật gồm hệ thống giao thông,
cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, cấp nước, thoát nước, xử lý chất
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

16
thải, thông tin liên lạc và các công trình hạ tầng kỹ thuật khác; bảo đảm sự kết
nối, thống nhất giữa các hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong đô thị và sự liên thông
với các công trình hạ tầng kỹ thuật cấp vùng, quốc gia và quốc tế.
Ngoài ra, việc lập đồ án quy hoạch đô thị cần phải căn cứ vào các nhân tố
khách quan khác như: Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã
hội, quốc phòng, an ninh, định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc
gia, quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch đô thị cấp trên đã được phê duyệt;
Quy hoạch ngành đã được phê duyệt; Nhiệm vụ quy hoạch đô thị đã được phê
duyệt; Quy chuẩn về quy hoạch đô thị và quy chuẩn ngành; Bản đồ địa hình do
cơ quan chuyên môn khảo sát, đo đạc lập; Tài liệu, số liệu về kinh tế – xã hội
của địa phương và ngành có liên quan.
Để đảm bảo cho việc quy hoạch đô thị có tính khả thi, có chất lượng thì
Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 cũng quy định rõ tổ chức tham gia lập quy
hoạch đô thị phải có các điều kiện như: đối với tổ chức phải có tư cách pháp
nhân, có năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, có các điều kiện kỹ thuật phù
hợp; đối với cá nhân thì cần phải có chứng chỉ hành nghề do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền cấp và có năng lực phù hợp; nếu là tổ chức tư vấn, cá nhân nước
ngoài thì ngoài các điều kiện như đã nêu ở trên thì còn cần phải được cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam công nhận. Luật cũng nêu rõ việc lập quy hoạch
đô thị phải do tổ chức tư vấn thực hiện, được lựa chọn thông qua hình thức chỉ
định hoặc thi tuyển và Chính phủ quy định cụ thể hình thức chỉ định, thi tuyển
này.
Sau khi thực hiện việc lập quy hoạch, các cơ quan tổ chức lập quy hoạch
đô thị phải tổ chức lấy ý kiến về quy hoạch đô thị. Các cơ quan tổ chức lập quy
hoạch đô thị, chủ đầu tư dự án xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ
chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy
hoạch đô thị. Ủy ban nhân dân có liên quan, tổ chức tư vấn lập quy hoạch có
trách nhiệm phối hợp tổ chức lập quy hoạch đô thị, chủ đầu tư dự án xây dựng
trong việc lấy ý kiến. Các ý kiến đóng góp phải được tổng hợp đầy đủ, có giải
trình, tiếp thu và trình cấp có thẩm quyền xem xét trước khi quyết định phê
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

17
duyệt. Việc lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được thực hiện
bằng hình thức gửi hồ sơ, tài liệu hoặc tổ chức hội nghị, hội thảo; cơ quan, tổ
chức được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản. Như vậy, khi được
lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức dù có ý kiến đóng góp hay không cũng cần trả
lời bằng văn bản cho tổ chức, cá nhân thực hiện việc lấy ý kiến.
Đối với việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư được thực hiện thông qua đại
diện cộng đồng dân cư, đại diện này có trách nhiệm tổng hợp ý kiến của cộng
đồng dân cư và phải tuân thủ nguyên tắc dân chủ. Việc lấy ý kiến cộng đồng
dân cư về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết được
thực hiện bằng phiếu góp ý thông qua hình thức trưng bày công khai hoặc giới
thiệu phương án quy hoạch trên phương tiện thông tin đại chúng. Về thời gian
lấy ý kiến cũng được quy định cụ thể, đối với cơ quan thời gian lấy ý kiến ít
nhất là 15 ngày và ít nhất 30 ngày đối với cộng đồng dân cư. Việc lấy ý kiến
cộng đồng dân cư là rất cần thiết vì dù việc lập quy hoạch là do cơ quan nhà
nước, các chủ đầu tư thực hiện nhưng người nắm quyền sử dụng đất vẫn là
người dân, nếu quy hoạch không thuận tình, không được người dân ủng hộ thì
quá trình triển khai sẽ rất khó thực hiện. Việc lấy ý kiến thể hiện tính dân chủ,
người dân sẽ được thể hiện tâm tư, nguyện vọng và có những góp ý mang tính
thực tế cho việc quy hoạch từ đó giúp cho quy hoạch có tính khả thi cao khi
triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 không nêu rõ những ý kiến
đóng góp của người dân sẽ được tiếp thu ở mức độ như thế nào hay chỉ làm
mang tính hình thức, người dân có được bác bỏ quy hoạch đô thị được đưa ra
lấy ý kiến hay không và nếu được thì tỉ lệ bao nhiêu mới được chấp thuận, đối
với việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư thông qua đại diện thì đại diện đó là ai,…
Mặt khác, căn cứ vào quy định của các văn bản có liên quan thì khi tiến
hành lập quy hoạch đô thị cũng cần tuân thủ các quy định tại Nghị định số
37/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ về lập, thẩm định, phê duyệt
và quản lý quy hoạch đô thị. Cụ thể tại Điều 14 Nghị định này nêu rõ các nguyên
tắc lập quy hoạch đô thị:
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

18
– Để đảm bảo phù hợp với định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị
quốc gia, Thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị
trấn, đô thị mới phải được lập quy hoạch chung.
– Để làm cơ sở xác định các dự án đầu tư xây dựng và lập quy hoạch chi
tiết, các khu vực trong thành phố, thị xã phải lập quy hoạch phân khu để cụ thể
hoá quy hoạch chung.
– Để cơ sở để lập dự án đầu tư xây dựng và cấp giấy phép xây dựng, các
khu vực trong thành phố, thị xã, thị trấn, khi thực hiện đầu tư xây dựng phải
lập quy hoạch chi tiết để cụ thể hoá quy hoạch chung, quy hoạch phân khu,
làm.
– Đối với dự án đầu tư xây dựng do một chủ đầu tư tổ chức thực hiện có
quy mô nhỏ hơn 5 ha (nhỏ hơn 2 ha đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở chung
cư) thì có thể lập dự án đầu tư xây dựng mà không phải lập quy hoạch chi tiết.
Bản vẽ tổng mặt bằng, phương án kiến trúc công trình, giải pháp về hạ tầng kỹ
thuật trong nội dung thiết kế cơ sở phải phù hợp với quy hoạch phân khu; đảm
bảo sự đấu nối hạ tầng kỹ thuật và phù hợp về không gian kiến trúc với khu
vực xung quanh.
1.3.3. Thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị
Nhằm bảo đảm quy hoạch đáp ứng được các yêu cầu, Điều 42 Luật Quy
hoạch đô thị năm 2009 quy định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch được thẩm định
bởi một hội đồng gồm đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa
phương, Hội đồng kiến trúc quy hoạch và đại diện các hội nghề nghiệp liên
quan. Đối với đồ án quy hoạch thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng
Chính phủ thì Bộ Xây dựng quyết định thành lập Hội đồng; đối với các đồ án
thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân các cấp thì người có thẩm
quyền phê duyệt đồ án có quyền quyết định thành lập Hội đồng thẩm định. Việc
tổ chức thẩm định sẽ tạo điều kiện cho đơn vị lập đồ án quy hoạch đô thị trình
bày mục đích, “ý đồ” của đồ án. Hội đồng thẩm định sẽ đánh giá sự cần thiết,
mục tiêu của đồ án, đánh giá đồ án được thực hiện có đúng quy trình theo quy
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

19
định không. Hội đồng thẩm định cũng sẽ góp ý thêm cho đồ án nếu cần thiết để
đơn vị lập đồ án bổ sung, điều chỉnh hoàn thiện hơn.
Về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, Điều 44 Luật Quy hoạch đô thị 2009
quy định theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương. Cụ thể
như sau :
– Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chung
các đô thị trực thuộc Trung ương, đô thị loại I và các đô thị mới có quy mô dân
số dự báo tương đương với đô thị loại III trở lên; quy hoạch chuyên ngành hạ
tầng kỹ thuật của đô thị loại đặc biệt; các quy hoạch đô thị khác có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng về chính trị, văn hoá, lịch sử, kinh tế, xã hội của quốc gia và
các quy hoạch khác do Chính phủ giao Bộ Xây dựng tổ chức lập.
– Đối với quy hoạch thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn, đô thị mới; quy
hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật thành phố trực thuộc Trung ương nhưng
không là đô thị loại đặc biệt; quy hoạch phân khu thuộc đô thị loại đặc biệt và
loại I, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết các khu vực trong đô thị có
phạm vi liên quan đến địa giới hành chính của 2 quận, huyện trở lên, khu vực
có ý nghĩa quan trọng, khu vực trong đô thị mới nhưng không thuộc thẩm quyền
phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương phê duyệt.
– Ủy ban nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, Ủy ban nhân dân
huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy
hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết trong phạm vi địa giới hành chính do mình
quản lý, trừ các quy hoạch đô thị thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chính phủ
và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
– Ủy ban nhân dân huyện thuộc tỉnh phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy
hoạch chi tiết thị trấn. Chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng phê duyệt nhiệm vụ
quy hoạch chi tiết khu vực đã được cấp giấy phép quy hoạch. Trình tự, thủ tục
phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị do Chính phủ quy định.
Luận văn UEH LLM COURSE WORK – www.law.ueh.edu.vn

20
Về thời gian thẩm định, phê duyệt quy hoạch chung đô thị10, kể từ ngày
nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ thì:
– Đối với thành phố trực thuộc Trung ương, thời gian thẩm định nhiệm vụ
không quá 25 ngày, thời gian phê duyệt nhiệm vụ không quá 15 ngày, thời gian
thẩm định đồ án không quá 30 ngày, thời gian phê duyệt đồ án không quá 25
ngày.
– Đối với thành phố thuộc tỉnh, thị xã, đô thị mới, thời gian thẩm định
nhiệm vụ không quá 20 ngày, thời gian phê duyệt nhiệm vụ không quá 15 ngày;
thời gian thẩm định đồ án không quá 25 ngày, thời gian phê duyệt đồ án không
quá 15 ngày.
– Đối với thị trấn, thời gian thẩm định nhiệm vụ không quá 20 ngày, thời
gian phê duyệt nhiệm vụ không quá 15 ngày; thời gian thẩm định đồ án không
quá 25 ngày, thời gian phê duyệt đồ án không quá 15 ngày.
Như vậy, có thể thấy tùy vào từng loại đô thị, từng địa phận, từng khu vực
sẽ có thời gian thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị khác nhau. Thời hạn
thẩm định tối đa không quá 02 tháng, đảm bảo cho công tác xây dựng đồ án
quy hoạch được thực hiện nhanh và xuyên suốt.
1.3.4. Điều chỉnh quy hoạch đô thị
Trên thực tế, trong quá trình lập, triển khai thực hiện quy hoạch đô thị
cũng cần có sự thay đổi, điều chỉnh. Tuy nhiên, để tránh việc điều chỉnh tuỳ
tiện, gây ảnh hưởng xấu đến không gian, kiến trúc, cảnh quan và cộng đồng,
Luật đã quy định chặt chẽ các điều kiện được tiến hành điều chỉnh quy hoạch
đô thị11. Đồng thời, việc điều chỉnh quy hoạch phải dựa trên cơ sở kết quả rà
soát, đánh giá quy hoạch hiện hành và làm rõ nguyên nhân phát sinh những bất
cập trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch12. Việc điều chỉnh có thể ở
mức độ điều chỉnh tổng thể hoặc điều chỉnh cục bộ.

10 Nghị định số 37/2010/NĐ-CP Khoản 1, Điều 32
11 Luật quy hoạch đô thị 2009, Điều 47
12 Luật quy hoạch đô thị 2009, Điều 46

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *