9923_Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn Độ

luận văn tốt nghiệp

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
—————

ĐÀM HẢI VÂN

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
VIỆT NAM SANG ẤN ĐỘ

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 8.34.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG

Hà Nội, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là do tự bản thân thực hiện có sự hỗ trợ từ giáo
viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác. Các dữ
liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu này là có nguồn gốc và trích dẫn rõ
ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Học viên

Đàm Hải Vân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..
1
Chương 1: NỀN TẢNG PHÁP LÝ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
XUẤTKHẨU HÀNG HÓA CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG ẤN ĐỘ
…………………………………………………………………………………
5
1.1. Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu hàng hóa
……………………………….
5
1.2. Nền tảng xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Ấn Độ
………………………………
11
1.3. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Ấn
Độ ………………………………………………………………………………………………………………
15
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM SANG ẤN ĐỘ
……………………………………………………………..
24
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam sang Ấn Độ ..
24
2.2. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ
…………………………….
38
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA SANG ẤN ĐỘ
……………………………………………………………………………………
45
3.1. Phân tích SWOT cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Ấn Độ …
45
3.2. Định hướng xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ của Việt Nam ………………………
47
3.3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp Việt
Nam sang thị trường Ấn Độ.
………………………………………………………………………….
50
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………..
74

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Ấn Độ…………………………………………..
18
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ ………………………………
23
Bảng 2.2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu……………………………………………
24
Bảng 3.1. Phân tích SWOT cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Ấn Độ

…………………………………………………………………………………………………………………..
45
Bảng 3.2. Dự báo tăng trưởng nhập khẩu của Ấn Độ từ một số thị trường
…………..
46
Bảng 3.3. Dự báo tăng trưởng một số ngành hàng nhập khẩu của Ấn Độ ……………
48

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ấn Độ là một trong những thị trường lớn nhất thế giới, một thị trường đầy tiềm
năng được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã và đang vươn tới.Với tư cách là
thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội lớn trong việc thúc đẩy mạnh mẽ xuất
khẩu vào thị trường Ấn Độ. Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu của Ấn Độliên tục ở
mức cao trong những năm gần đây (482,3 tỷ USD năm 2014, 472 tỷ USD năm 2015,
432 tỷ USD năm 2016) cũng là cơ hộicho các doanh nghiệp Việt Nam tăng mạnh
xuất khẩu vào thị trường này.
Những năm gần đây, quan hệ Việt Nam và Ấn Độ về thương mại tăng trưởng
mạnh kể từ khi hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ có hiệu lực vào năm
2010, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ đạt kim ngạch cao và
gia tăng liên tục (3,76 tỷ USD năm 2017, tăng 39,7% so với năm 2016), trong đó
trước hết phải kể đến những nhóm hàng như: nông sản, thủy hải sản, da giày, đồ gỗ,
thủ công mỹ nghệ…
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu đang có nhiều biến động, chính
sách nhập khẩu của Ấn Độ đã được điều chỉnh, các rào cản thương mại tăng cường
được áp dụng đã gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ. Nhóm hàng chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ vẫn là những sản phẩm thuộc nhóm hàng
không được giảm thuế như cao su, sản phẩm từ cao su hay những nhóm hàng không
được hưởng ưu đãi về thuế từ Hiệp định AIFTA như điện thoại các loại, máy vi tính…
dẫn đến việc giá trị gia tăng cho Việt Nam không cao. Bên cạnh đó, tuy tổng kim
ngạch xuất khẩu gia tăng nhưng cũng có nhiều mặt hàng sự tăng trưởng lại không
đều, có năm tăng có năm giảm, do biến động kinh tế thế giới cũng như sự cạnh tranh
về giá từ các nước xuất khẩu khác.
Trước tình hình những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
định hướng phát triển xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ tác giả quyết định chọn đề
tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn Độ” làm đề tài luận
văn thạc sỹ chuyên ngành Quản trị kinh doanh của mình.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo một số đề tài nghiên cứu có
liên quan như:
Đề tài khoa học cấp Bộ: “Xuất khẩu nông sản Việt Nam trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay – Thách thức và cơ hội” của TS. Nguyễn Minh Đức,
Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh nghiệm thu tháng 07/2009 tại Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn. Mục đích nghiên cứu là đề ra những phương hướng thúc đẩy
xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu những
năm 2008 – 2010 và đề ra giải pháp trong những năm tiếp theo.
Báo cáo thường niên “Quan hệ thương mại Việt Nam – Ấn Độ” của tác giả
Hoàng Thị Bích Loan năm 2013 tại VCCI phân tích thực trạng quan hệ thương mại
song phương giữa Việt Nam và Ấn Độ và đề ra một số giải pháp thúc đẩy mối quan
hệ thương mại này.
Ấn phẩm “Giới thiệu thị trường Ấn Độ và giải pháp đẩy mạnh quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và Ấn Độ” của tác giả Đỗ Hữu Huy, Vụ thị trường châu Á – châu
Phi phát hành năm 2017 đã cung cấp thông tin khái quát về thị trường tiềm năng Ấn
Độ cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu về hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Ấn Độ. Do đó luận văn sẽ đi
sâu vào phân tích và đưa ra những giải pháp về hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Ấn Độ
và các yếu tố tác động, từ đó đề xuất một số giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Ấn Độ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh.
– Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường Ấn Độ trong những năm vừa qua.

3

– Đưa ra các giải pháp khả thi cho doanh nghiệp Việt Nam nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Ấn Độ trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của
doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Ấn Độ.
Thời gian nghiên cứu tập trung vào các năm 2015, 2016, 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nguồn thông tin và số liệu: Thông tin và số liệu được sử dụng trong bài luận
văn chủ yếu là các thông tin và số liệu thứ cấp, đến từ ba nguồn thông tin và số
liệu chính: Internet, Báo cáo Hồ sơ thị trường Ấn Độ năm 2017 của VCCI và sách
tham khảo “Giới thiệu thị trường Ấn Độ và giải pháp đẩy mạnh quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và Ấn Độ” của Bộ Công thương năm 2017. Vì lí do hạn chế
về nguồn lực điều tra nên bài luận văn chưa thể tiến hành những cuộc điều tra với
các doanh nghiệp thực tế đang xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ để có được những
dữ liệu sơ cấp.
Phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng chủ yếu trong bài luận văn là
phương pháp quan sát
5.2. Phương pháp phân tích số liệu
Với cách tiếp cận dưới góc độ của doanh nghiệp, tác giả sử dụng một số
phương pháp truyền thống như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê và kế toán.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích từng nội dung cụ thể,
luận văn đưa ra những đánh giá khái quát chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá
của doanh nghiệp Việt Nam vào Ấn Độ.
Phương pháp phân tích thống kê: Luận văn sử dụng các số liệu thống kê phù
hợp để phục vụ cho việc phân tích hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
Việt Nam vào Ấn Độ.
Phương pháp lôgic: Dựa trên cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế đã hệ
thống hóa, luận văn phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh

4

nghiệp Việt Nam sang Ấn Độ và có các đánh giá cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận thực tiễn trong việc vận dụng các lý
thuyết về xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
Việt Nam sang Ấn Độ nói riêng để từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu
hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam sang Ấn Độ trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
theo 3 chương:
Chương 1: Nền tảng pháp lý và các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá của
các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Ấn Độ
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sang
Ấn Độ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang Ấn Độ
Do những hạn chế về thời gian, về tài liệu và khả năng của người viết, nội dung
của luận văn khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận
được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô cũng như những góp ý của đông đảo bạn
đọc. Xin chân thành cảm ơn!

5

Chương 1
NỀN TẢNG PHÁP LÝ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG ẤN ĐỘ
1.1. Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu hàng hóa
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác. Dưới góc độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hoá và dịch vụ,
một hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài có thể ít rủi ro hơn và chi phí thấp
hơn. Dưới góc độ phi kinh doanh như quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại thì
hoạt động xuất khẩu chỉ là việc lưu chuyển hàng hoá hoặc dịch vụ qua biên giới
quốc gia [8,15] 1.1.2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá có bốn vai trò cơ bản sau đây:
– Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho việc nhập khẩu phục vụ phát
triển đất nước
Theo lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo trong tác phẩm “Những
nguyên lý về kinh tế chính trị 1817” thì mọi quốc gia đều có lợi khi tham gia vào
phân công lao động quốc tế bởi vì “ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu
dùng của một nước” do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất
định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác.
Đối với các nước phát triển, trên cơ sở trình độ sản xuất cao thì xuất khẩu
giúp họ tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa và
nhập khẩu những mặt hàng không phải thế mạnh của họ trong sản xuất.
Đối với các nước đang phát triển thì việc xuất khẩu sẽ giúp cho họ có được
một phần vốn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến. Chẳng hạn với Việt Nam, công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích
hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của
nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có
số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn

6

vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Xuất khẩu hàng hoá,
đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ, xuất khẩu
sức lao động… Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy
quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này.
Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước chính là xuất
khẩu. Quy mô xuất khẩu sẽ quyết định qui mô và tốc độ tăng trưởng của nhập
khẩu. Ở Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990, nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá đảm bảo
tới trên 75% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tương tự, thời kỳ 1991 – 1995 là
66% và 1996 – 2000 là 50% (đó là chưa thống kê nguồn vốn thông qua xuất khẩu
dịch vụ). Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu
tư và vay nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và
người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn chủ yếu để trả nợ – trở
thành hiện thực.
– Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ các sản phẩm thừa do sản xuất vượt
quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu, chậm phát triển
như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng. Do vậy, nếu chỉ thụ động
chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng
chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới là huớng quan trọng để
tổ chức sản xuất.Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường
thế giới để tổ chức sản xuất.Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
– Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống người dân
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều
mặt.Trước hết, sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi

7

thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với mức thu nhập không thấp.Xuất khẩu
tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời
sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất, làm cho cả qui mô lẫn tốc
độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời,
sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất
lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.
– Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của đất nước
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc
lẫn nhau.Thường thì hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế này phát triển. Chẳng
hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại
kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. [8,16-20] Bởi những lí do trên, việc đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò to lớn trong việc
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá
Theo TS. Nguyễn Minh Đức [3,7], có những hình thức xuất khẩu chủ yếu sau
đây:
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các
khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Xuất khẩu trực tiếp có 2 hình thức chủ yếu là:
Đại diện bán hàng: Đại lý bán hàng là hình thức bán hàng không mang
danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và
một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hoá bán được. Trên thực tế, đại diện bán
hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của Công ty ở thị trường nước
ngoài.Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở nước đó.
Đại lý phân phối: Đại lý phân phối là người mua hàng hoá của Công ty để

8

bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà Công ty phân định. Công ty khống chế phạm
vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận
toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng hoá ở thị trường đã phân định và thu
lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Ưu điểm của phương thức xuất khẩu trực tiếp:
– Cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số
lượng, chất lượng, giá cả để người bán thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
– Giúp cho người bán nắm bắt được thông tin thị trường một cách kịp thời
và chính xác, không bị chia sẻ lợi nhuận và xây dựng chiến lược tiếp thị quốc tế
phù hợp.
Nhược điểm của phương thức xuất khẩu trực tiếp:
– Chi phí tiếp thị thị trường nước ngoài cao cho nên những doanh nghiệp có
quy mô nhỏ, vốn ít thì nên xuất khẩu ủy thác có lợi hơn.
– Kinh doanh xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ nghiệp vụ kinh
doanh xuất khẩu giỏi: Giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm
buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, có như vậy
mới bảo đảm kinh doanh xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả.
1.1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá và dịch vụ của công ty ra
nước ngoài thông qua trung gian (thông qua người thứ ba).
Ba loại trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: Đại lý,
công ty quản lý xuất khẩu và công ty kinh doanh xuất khẩu. Các trung gian mua
bán này không chiếm hữu hàng hoá của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu
hàng hoá sang thị trường nước ngoài.
Đại lý: là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một
hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước ngoài. Đại lý chỉ thực hiện một
công việc nào đó cho Công ty uỷ thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và
sỡ hữu hàng hoá.Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa Công ty và khách
hàng ở thị trường nước ngoài.
Công ty quản lý xuất khẩu: là Công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất

9

khẩu hàng hoá. Công ty quản lý xuất khẩu hàng hóa hoạt động trên danh nghĩa của
Công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn
thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất của công
tác quản lý xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao
nhất định từ các hoạt động đó.
Công ty kinh doanh xuất khẩu: là Công ty hoạt động như nhà phân phối độc
lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với các Công ty xuất khẩu
trong nước để đưa hàng hoá ra nước ngoài tiêu thụ. Bản chất của Công ty kinh
doanh xuất khẩu là thực hiện các dịch vụ xuất khẩu nhằm kết nối khách hàng nước
ngoài với Công ty xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
– Người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập,
pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh buôn
bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác.
– Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất
định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước tiêu thụ
hàng.
– Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, người
ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
Nhược diểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
– Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường.
– Công ty phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới nên vốn hay
bị bên nhận đại lý chiếm dụng và lợi nhuận bị chia sẻ.
Do những lợi hại nêu trên, trung gian chỉ được sử dụng trong những trường
hợp thật cần thiết như: khi thâm nhập vào thị trường mới, mặt hàng mới; khi tập
quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian.
Sau khi đã xác định được nhất định phải sử dụng đại lý, thì tiếp theo phải
nghiên cứu những vấn đề sau một cách kỹ lưỡng:
– Mặt hàng ủy thác tiêu thụ, hoặc ủy thác mua vào là mặt hàng nào?
– Địa bàn hoạt động của đại lý uỷ thác nên ở chỗ nào?

10

– Thời gian ủy thác cho đại lý nên là bao nhiêu?
1.1.3.3. Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là hoạt động trong đó một bên gọi là bên đặt hàng, sẽ giao
nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia, gọi là
bên nhận gia công, để sản xuất một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Sau
khi sản xuất xong, bên đặt hàng nhận hàng hoá đó từ bên nhận gia công và trả tiền
công cho bên làm hàng gọi là hoạt động gia công. Khi hoạt động gia công vượt ra
khỏi phạm vi biên giới quốc gia thì gọi là gia công xuất khẩu.
Do đó, gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên
liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu dùng trong
nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do tiền công đem lại. Vì vậy, suy
cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao
động dưới dạng được sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá), chứ không phải
dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
Có 2 loại quan hệ gia công quốc tế:
Một là, bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (không
chịu thuế quan) cho người nhận gia công để chế biến sản phẩm và giao trở lại cho
bên đặt gia công. Ở đây chưa có sự chuyển giao quyền sở hữu đối với nguyên liệu,
bán thành phẩm. Thực chất đây là hình thức “làm thuê” cho bên đặt gia công , bên
nhận gia công không có quyền chi phối sản phẩm làm ra.
Hai là, nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được xuất đi nhằm gia công chế
biến và sau đó nhập thành phẩm trở lại.Trong quan hệ này, quyền sở hữu đối với
nguyên liệu, bán thành phẩm đã được chuyển giao. Vì vậy, khi nhập trở lại các bộ
phận giá trị thực tế tăng thêm đều phải chịu thuế quan. Thực chất đây là hình thức
bên đặt gia công giao nguyên vật liệu, giúp đỡ kỹ thuật cho bên nhận gia công và
bao tiêu sản phẩm.
1.1.3.4. Tái xuất khẩu và chuyển khẩu
Mỗi quốc gia có một định nghĩa riêng về tái xuất.Nhiều nước Tây Âu và
Mỹ Latinh quan niệm tái xuất là xuất khẩu những hàng ngoại quốc từ kho hải quan,
chưa qua chế biến ở nước mình.Anh, Mỹ và một số nước khác lại coi đó là việc

11

xuất khẩu những hàng ngoại quốc chưa qua chế biến ở trong nước dù hàng đó đã
qua lưu thông nội địa.Như vậy, các nước đều thống nhất quan niệm tái xuất là lại
xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế
biến ở nước tái xuất.
Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về
một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba
nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Vì vậy người ta còn gọi
giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác.
Các loại hình tái xuất: tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai
hình thức sau:
Tái xuất theo đúng nghĩa của nó: hàng hoá đi từ nước xuất khẩu tới nước
tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều
với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền
nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
Chuyển khẩu: hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
Có sự khác biệt giữa các loại hình tái xuất khẩu với kinh doanh quá
cảnh.Kinh doanh quá cảnh là kinh doanh dịch vụ vận tải chở hàng nước ngoài từ
một cửa khẩu này đến một cửa khẩu biên giới khác.
1.2. Nền tảng xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Ấn Độ
Về Quan hệ ngoại giao – chính trị, Việt Nam và Ấn Độ thiết lập quan hệ
lãnh sự từ năm 1956 và nâng lên thành quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ ngày
7/1/1972. Quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam – Ấn Độ khởi nguồn từ những
mối giao lưu về văn hóa, lịch sử, tôn giáo, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ
tướng J.Nê-ru đặt nền tảng, được các thế hệ lãnh đạo hai nước gìn giữ, vun đắp
trong giai đoạn thống nhất và phát triển kinh tế – xã hội của hai nước.
Quan hệ hai nước đã được Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá “Trong
sáng không một gợn mây” và đã được nâng cấp lên tầm quan hệ Đối tác chiến lược
năm 2007 trên cơ sở sự tương đồng về lợi ích chiến lược thực sự giữa hai nước.
Mối quan hệ này tiếp tục được nâng cấp thành “Đối tác Chiến lược Toàn

12

diện” (tháng 9/2016), phản ánh sự phát triển sâu rộng, tin cậy và hiệu quả của quan
hệ Việt Nam – Ấn Độ.
Trong những năm gần đây, quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác chiến
lược Việt Nam-Ấn Độ ngày càng sâu rộng, đi vào thực chất trên tất cả các lĩnh
vực.Hai nước có quan hệ chính trị phát triển tốt đẹp, thường xuyên trao đổi các
chuyến thăm cấp cao. Trong đó đáng chú ý là các chuyến thăm Ấn Độ của Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang năm 2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2013,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2014 và chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống
Ấn Độ Pranab Mukhajee năm 2014. Gần đây là chuyến thăm Việt Nam của Thủ
tướng Ấn Độ Narendra Modi vào tháng 9/2016. Trong chuyến thăm này của Thủ
tướng Ấn Độ, hai bên đã thực hiện một bước tiến lịch sử, nâng mối quan hệ của
hai nước lên quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, một minh chứng rõ ràng về tình
hữu nghị truyền thống lâu dài Việt Nam-Ấn Độ.
Cho đến nay, hai nước đã kí các Hiệp định thương mại, Tránh đánh thuế hai
lần, Khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Lãnh sự, Hợp tác văn hoá, Hàng không, Du
lịch, Tương trợ tư pháp về hình sự…; đã kí các Thoả thuận về tham khảo chính trị
giữa hai Bộ Ngoại giao, Hợp tác về mỏ và địa chất, môi trường, y học dân tộc và
nghị định thư về hợp tác quốc phòng. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 15 tháng
10/2009 tại Thái Lan, hai nước kí bản ghi nhớ công nhận Việt Nam có nền kinh tế
thị trường đầy đủ (MES).[4,16] Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ (AIFTA)
Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ được ký ngày 13 tháng 08
năm 2009 tại Thái Lan. Qua đó, về phía Việt Nam, cam kết cắt giảm thuế quan
của Việt Nam, xóa bỏ 80% số dòng thuế vào năm cuối lộ trình là năm 2021 (71%
số dòng thuế vào 2018, và 9% số dòng thuế vào 2021), 10% số dòng thuế còn lại
chỉ cắt giảm vào cuối lộ trình (năm 2024), danh mục loại trừ gồm 468 dòng HS 6
số (chiếm khoảng 10% số dòng thuế). [9,27]

Bộ Tài chính đã ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN-Ấn
Độ giai đoạn 2015-2018 kèm theo Thông tư số 169/2014/TT-BTC ngày
14/11/2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.Năm 2015-2018 có 1170 dòng có mức

13

thuế suất là 0%, chiếm 12,3% tổng số dòng thuế, trong đó chỉ có 8 dòng thuế ưu
đãi hơn so với thuế suất MFN hiện hành.Việt Nam sẽ kết thúc thực hiện lộ trình
cam kết xóa bỏ/cắt giảm thuế vào 2024 với tỷ lệ xóa bỏ 70% số dòng thuế, tập
trung vào nhóm chè, cà phê, cao su, rau củ quả, giày dép, hàng gia dụng, thuỷ sản,
hoá chất, kim loại, sắt thép, khoáng sản, Máy móc, thiết bị, vật liệu xây dựng.

Diện mặt hàng không cam kết (30% số dòng thuế) gồm: trứng, đường, muối,
xăng dầu, phân bón, nhựa, cao su, kim loại quý, sắt thép, máy móc, thiết bị điện,
ô tô, xe máy, thiết bị phụ tùng, và các mặt hàng an ninh quốc phòng (pháo hoa,
súng, thuốc phiện,…).
Cam kết Ấn Độ dành cho Việt Nam: Ấn Độ cam kết xóa bỏ 80% số dòng
thuế vào 2016 (71% số dòng thuế vào 2013, và thêm 9% số dòng thuế vào 2016),
10% số dòng thuế hoàn thành cắt giảm một phần thuế suất vào 2019, danh mục
loại trừ chiếm khoảng 10% số dòng thuế. Mặt hàng Ấn Độ cam kết xóa bỏ thuế
quan gồm động vật sống, thịt, cá, sữa, rau quả, dầu mỡ, bánh kẹo, nước hoa quả,
hóa chất, mỹ phẩm, nguyên phụ liệu dệt may, sản phẩm dệt may, kim loại, sắt
thép, máy móc, thiết bị điện, đồng hồ, …
Về quan hệ hợp tác giáo dục, văn hóa, thể thao và du lịch, Ấn Độ đang
giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trên nhiều lĩnh vực như:
Công nghệ thông tin, kinh tế, luật, tiếng Anh… thông qua nhiều học bổng ngắn
hạn và dài hạn; hai nước đã gia hạn Chương trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam
và Ấn Độ.
Về quan hệ hợp tác an ninh, quốc phòng giữa hai nước tiếp tục phát triển
tốt. Trong đó, hợp tác quốc phòng hai nước đã được mở rộng trong cả 3 quân binh
chủng: Hải, lục, không quân và tập trung vào 3 lĩnh vực: Đào tạo, công nghiệp
quốc phòng và tàu thăm viếng; đồng thời, hai bên đã ký kết Chương trình hợp tác
về các vấn đề gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và Thỏa thuận kỹ thuật về Chia sẻ
thông tin hàng hải phi quân sự.
Hợp tác an ninh hai nước được tăng cường trong các lĩnh vực phòng chống tội
phạm, khoa học hình sự, phòng chống ma túy, chống khủng bố. Đồng thời, hai nước
cũng phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các Diễn đàn đa phương như: Liên hợp

14

quốc, ASEAN, ARF, ADMM+…Trong vai trò là điều phối viên quan hệ Ấn Độ-
ASEAN (giai đoạn 2015- 2018), Việt Nam ủng hộ Ấn Độ thực hiện Chính sách “Hành
động hướng Đông”, các sáng kiến kết nối khu vực…
Về thương mại, Ấn Độ hiện là một trong 10 đối tác thương mại lớn nhất
của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng dần qua các năm kể từ khi
hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Đặc biệt, hai nước đã thiết lập cơ
chế Tiểu ban Hỗn hợp thương mại nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Ấn Độ của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và họp phiên đầu tiên tháng 1/2014.
Năm 2017, kim ngạch thương mại hai chiều ước đạt 7,5 tỷ đô la Mỹ, tăng
mạnh 40,5% so với kết quả thực hiện trong năm 2016. Trong đó, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang thị trường Ấn Độ đạt gần 3,76 tỷ USD, tăng 39,7% so với
năm 2016, chiếm 1,7 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang tất cả các
đối tác thương mại trong năm 2017. Nhập khẩu các hàng hóa có xuất xứ Ấn Độ
vào Việt Nam đạt 3,87 tỷ USD, tăng 41,2% so với năm 2016, chiếm 1,8% tổng trị
giá nhập khẩu của cả nước trong năm 2017.
Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường Ấn Độ
trong những năm qua chủ yếu chú trọng vào các nhóm hàng máy móc phụ tùng và
thiết bị điện tử. Trong đó, tính riêng trị giá xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại
và linh kiện và máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong năm 2017 đã đạt
1,04 tỷ USD, chiếm gần 28% tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ.
Một số mặt hàng xuất khẩu chính khác bao gồm: Kim loại thường khác; Máy móc,
thiết bị dụng cụ và phụ tùng; Máy vi tính; Hóa chất…
Ở chiều ngược lại, các mặt hàng nhập khẩu chính có xuất xứ từ Ấn Độ được
các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhập khẩu trong năm 2017 là: Sắt thép các
loại đạt 811 triệu USD, chiếm 20,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ
quốc gia này; Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt 512 triệu USD, chiếm
13,2%; Hàng thủy sản đạt 357 triệu USD, chiếm 9,2%…
Tính đến hết tháng 11/2017, tổng vốn đăng ký đầu tư Ấn Độ vào Việt Nam
đạt 756 triệu đô la Mỹ, với 168 dự án đầu tư, đứng thứ 28/126 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trong đó, Ấn Độ đã xác định các lĩnh vực ưu tiên

15

trong hợp tác kinh tế thương mại với Việt Nam đó là: Điện khí hóa, điện, năng
lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng, du lịch, dệt may, giày dép, dược phẩm…Việt Nam
hiện có 7 dự án đầu tư sang Ấn Độ với tổng vốn đăng ký là 6,15 triệu đô la Mỹ,
chủ yếu trong lĩnh vực phân phối các sản phẩm thức ăn gia súc, phân phối vật liệu
xây dựng, xuất khẩu mỹ phẩm, các sản phẩm tin học. Đến nay, hai nước đã trở
thành đối tác thương mại quan trọng của nhau và Tuyên bố chung Việt Nam – Ấn
Độ về chuyến thăm cấp Nhà nước tới Ấn Độ của Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang từ ngày 2-4/3/2018 vừa qua nhấn mạnh mục
tiêu đưa kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 15 tỷ USD vào năm 2020.
1.3. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường Ấn Độ
1.3.1. Các yếu tố vĩ mô của Ấn Độ

Nguồn: Báo cáo thường niên về thị trường Ấn Độ của VCCI 2017
Về lịch sử, Ấn Độ có trên 5000 năm lịch sử, là một trong những cái nôi văn
minh của loài người.Từ cuối thế kỉ 15, người châu Âu bắt đầu đến Ấn Độ, đầu tiên
là người Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà Lan, Anh, Pháp… Đến năm 1858, Anh
chiếm toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ. Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ ngày 15/8/1947.
Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố thành lập nước cộng hoà.

16

Như vậy, ngôn ngữ chính được sử dụng khi các doanh nghiệp Việt Nam giao
thương với Ấn Độ là tiếng Anh. Các doanh nghiệp Ấn Độ đã có rất nhiều kinh
nghiệm giao thương với nước ngoài nên các doanh nghiệp Việt Nam cần trang bị
đầy đủ kiến thức về luật thương mại quốc tế, đặc biệt là Incoterm 2010 để tránh
những rủi ro phát sinh khi giao thương với các doanh nghiệp Ấn Độ.
Về môi trường tự nhiên, Ấn Độ bao trùm phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ và
nằm trên đỉnh của mảng kiến tạo Ấn Độ, có đường bờ biển dài 7.517 km. Theo
biểu đồ thủy văn học của Hải quân Ấn Độ, bờ biển lục địa Ấn Độ gồm: 43% là bãi
biển cát; 11% là bờ đá, gồm cả vách đá; và 46% là bãi bùn hay bãi lầy.
Các sông lớn bắt nguồn từ dãy Himalaya về căn bản chảy qua lãnh thổ Ấn
Độ gồm có sông Hằng và Brahmaputra, cả hai đều đổ nước vào vịnh Bengal.Các
sông chính ở phần bán đảo có độ dốc lớn hơn nên giúp ngăn ngừa nạn lụt.
Có thể thấy đường vận chuyển hàng hoá đến Ấn Độ từ Việt Nam có thể là
đường bộ, đường sắt, đường thuỷ hay đường hàng không, tuỳ vào sự lựa chọn của
doanh nghiệp. Tuy nhiên với những mặt hàng hay xuất khẩu sang Ấn Độ như nông
sản, thuỷ sản, lâm sản hay hàng điện tử thì các doanh nghiệp Việt Nam nên lựa
chọn phương tiện đường thuỷ vì những ưu điểm của nó như chi phí thấp, khối
lượng vận chuyển lớn, không kén chọn mặt hàng vận chuyển, và có thể dễ dàng
tiếp cận đến nhiều khu vực địa lý của Ấn Độ.
Về chính trị, Ấn Độ là một liên bang với một hệ thống nghị viện nằm dưới
sự khống chế của Hiến pháp Ấn Độ. Đây là một nước cộng hòa lập hiến với chế
độ dân chủ đại nghị, trong đó “quyền lực đa số bị kiềm chế bởi các quyền thiểu số
được bảo vệ theo pháp luật”. Chế độ liên bang tại Ấn Độ xác định rõ sự phân chia
quyền lực giữa chính phủ liên bang và các bang. Chính phủ tuân theo sự kiểm tra
và cân bằng của Hiến pháp.
Chính phủ liên bang gồm ba nhánh: Hành pháp: Tổng thống, Thủ tướng và
Hội đồng Bộ trưởng do thủ tướng đứng đầu; Lập pháp: Cơ quan lập pháp của Ấn
Độ là lưỡng viện quốc hội, là một thể chế thường trực gồm có 245 thành viên trong
nhiệm kỳ 6 năm; Tư pháp gồm ba cấp: Tòa án Tối cao, tòa án thượng thẩm, và tòa
án sơ thẩm.

17

Rõ ràng làhệ thống chính trị pháp luật của Ấn Độ khá phức tạp, các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rõ hệ thống này khi xâm nhập vào thị trường
Ấn Độ, đặc biệt là lực lượng hành pháp và tư pháp ở các bang địa phương, nếu
không tìm hiểu kĩ thì rủi ro đối với các doanh nghiệp của chúng ta là rất cao.
Về kinh tế, theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, năm 2017, GDP danh nghĩa của Ấn
Độ là 2,611.012 tỷ USD (đứng thứ 6 trên thế giới, đứng thứ 3 châu Á sau Trung
Quốc và Nhật Bản) và có GDP theo sức mua tương đương là 9,446 tỷ đô la Mỹ. Ấn
Độ có tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt 5.8% mỗi năm trong hai thập niên
qua, và đạt khoảng 7% trong giai đoạn 2012–2017, Ấn Độ là một trong các nền
kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.Tuy nhiên, Ấn Độ đều xếp hạng trên 100
thế giới về GDP danh nghĩa bình quân đầu người và GDP PPP bình quân đầu
người.
Vì vậy thị trường Ấn Độ là một thị trường rất tiềm năng cho các doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là những hàng hoá tiêu dùng nhanh
(FMCG)
Ấn Độ có lực lượng lao động gồm 521,9 triệu người theo số liệu năm 2017.
Lĩnh vực dịch vụ chiếm 46,6% GDP, lĩnh vực công nghiệp chiếm 28,9% và lĩnh vực
nông nghiệp chiếm 16,8%. Các nông sản chính của Ấn Độ là lúa gạo, lúa mì, hạt có
dầu, bông, đay, chè, mía, và khoai tây. Các ngành công nghiệp chính của Ấn Độ là
dệt, viễn thông, hóa chất, dược phẩm, công nghệ sinh học, chế biến thực phẩm, thép,
thiết bị vận tải, xi măng, khai mỏ, dầu mỏ, máy móc, và phần mềm.Năm 2008, Ấn
Độ chiếm 1,68% giá trị ngoại thương toàn cầu; Năm 2011, Ấn Độ là nước nhập khẩu
lớn thứ 10 và nước xuất khẩu lớn thứ 19 trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chính
của Ấn Độ bao gồm các sản phẩm dầu mỏ, hàng dệt may, đồ kim hoàn, phần mềm,
sản phẩm công nghệ, hóa chất, và gia công đồ da thuộc. Các mặt hàng nhập khẩu
chính gồm dầu, máy móc, ngọc, đá quý, phân bón, và hóa chất.Từ năm 2001 đến năm
2011, đóng góp của các mặt hàng hóa dầu và công nghệ vào giá trị xuất khẩu tăng từ
14% lên 42%.
Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Ấn Độ

18

Chỉ tiêu
2013
2014
2015
GDP (ppp)
6.889 tỷ USD
7,277 tỷ USD
8.027 tỷ USD
Tăng trưởng GDP
6,9%
7,3%
7,3%
GDP theo đầu người
5.500 USD
5.900 USD
6.300 USD
GDP theo ngành (2015)
Nông nghiệp 16,1%, Công nghiệp 29,5%, Dịch
vụ 54,4%
Lực lượng lao động
487,3 triệu
502,2 triệu
502 triệu
Tỉ lệ thất nghiệp
9,7%
7,3%
7,1%
Mặt hàng nông nghiệp
Gạo, lúa mì, bông, đay, chè, đường, hành,
khoai tây, cừu, dê, gia cầm…
Các ngành công nghiệp
Dệt, hóa chất, chế biến thực phẩm, thép, thiết
bị vận tải, xi măng, mỏ, dầu khí, máy móc,
phần mềm, dược phẩm…
Kim ngạch xuất khẩu
319,7 tỷ USD
329 tỷ USD
287 tỷ USD
Sản phẩm chính
Sản phẩm dầu khí, đá quý, máy móc, sắt thép,
hoá chất, phương tiện đồ thêu…
Các đối tác xuất khẩu chính
US 13,4%; UAE 10,4%, Trung Quốc 4,2%
Kim ngạch nhập khẩu
482,3 tỷ USD
472 tỷ USD
432 tỷ USD
Sản phẩm chính
Dầu thô, đá quý, máy móc, phân bón, sắt thép,
hoá chất…
Các đối tác nhập khẩu chính
Trung Quốc 12,7%; Arab Saudi 7,1%; UAE
5,9%, US 4,6%
(Nguồn: VCCI)
Từ những thông tin trên, các doanh nghiệp Việt Nam cần né những hàng
nông sản có thế mạnh của các doanh nghiệp Ấn Độ như lúa mì, chè mía, khoai
tây, thịt cừu, thịt dê…; tập trung vào những hàng hoá thị trường Ấn Độ có nhu
cầu nhập khẩu như gạo, rau, cao su, cà phê… Hiện nay dầu thực vật được nhập

19

khẩu vào Ấn Độ khá nhiều, các sản phẩm dầu ăn nhập khẩu phổ biến là dầu cọ,
dầu đậu nành và dầu hướng dương. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên quan
tâm đến thị trường sản phẩm từ sữa chất lượng cao như sữa bột, váng sữa bột,
bột, dầu bơ, bột sữa chua, đường sữa, các sản phẩm cung cấp năng lượng như
sữa chua giàu vitamin ngày một phát triển tại Ấn Độ, nhất là khi Ấn Độ đang
phát triển hệ thống bán lẻ có tổ chức trong các siêu thị và khu mua bán, đặc biệt
ở miền Nam Ấn Độ.
Rào cản thương mại của Ấn Độ, cả thuế quan và phi thuế quan đều tập
trung vào những mặt hàng có thế mạnh sản xuất của họ như thuỷ sản, dầu thô,
đá quý, máy móc và hoá chất nên các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tìm hiểu
kĩ về những rào cản này trước khi quyết định xuất khẩu những mặt hàng trên vào
thị trường Ấn Độ. Bên cạnh đó, vì các doanh nghiệp của Ấn Độ ưa thích sử dụng
ngoại tệ giao dịch là USD nên tỷ giá của đồng rupee của Ấn Độ so với đồng USD
cũng như tỷ giá của đồng USD so với Đồng của Việt Nam cũng cần các doanh
nghiệp Việt Nam xem xét, nghiên cứu, dự báo để có những quyết định về dòng
tiền hợp lí hơn.
Các sản phẩm chính xuất khẩu vào Ấn Độ của Việt Nam thường có lợi thế
cạnh tranh về tính đa dạng, giá thấp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam
cũng không thể bỏ qua các đối thủ rất lớn ở từng loại mặt hàng. Với hàng rau
quả, đó là Thái Lan và Trung Quốc. Trái cây Thái Lan có mẫu mã đẹp, trái to
mọng nhưng giá cao. Rau quả Trung Quốc có lợi thế về giá do chi phí vận chuyển
thấp. Cà phê và cao su là Brasil, hạt điều là Bờ Biển Ngà…
Với những hàng hoá Ấn Độ hay nhập nhiều từ trước đến nay như dầu khí,
đồ may mặc, sắt thép, phân bón… các doanh nghiệp Việt Nam nên tiến hành
những đánh giá về nhu cầu thực tế, tiềm lực của các đối thủ cũng như năng lực
cạnh tranh của mình đối với những mặt hàng này tại thị trường Ấn Độ cũng như
phối hợp chặt chẽ với tham tán thương mại của Việt Nam tại Ấn Độ để có thể tận
dụng những cơ hội xâm nhập thị trường này.
Về văn hoá xã hội, với dân số 1.339 tỷ người theo điều tra năm 2017, Ấn
Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số của Ấn

20

Độ trung bình 1,76% mỗi năm.Số người Ấn Độ sinh sống tại thành thị tăng
trưởng nhanh chóng nhưngvẫn có trên 70% cư dân Ấn Độ sinh sống tại các vùng
nông thôn (số liệu điều tra dân số của Ấn Độ 2015). Tiếng Hindi có số lượng
người nói lớn nhất và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ. Tiếng Anh được sử
dụng rộng rãi trong kinh doanh và hành chính và có địa vị “ngôn ngữ phó chính
thức”; và có vị thế quan trọng trong giáo dục, đặc biệt là trong môi trường giáo
dục đại học. 800 triệu người Ấn Độ (80,5% tổng dân số) là tín đồ Ấn Độ giáo,
Ấn Độ giáo do vậy là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ, sau đó là Hồi giáo (13,4%),
Kito giáo (2,3%), Sikh giáo (1,9%), Phật giáo (0,8%)…
Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những kiến thức cơ bản về
văn hoá của thị trường Ấn Độ, tránh việc thất bại trên thị trường này do sự khác
biệt về văn hoá
1.3.2. Nhân tố từ tình hình thế giới
Xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa:
Trong những điều kiện thế giới hiện nay, kinh tế các nước vừa phát triển
vừa tăng cường liên kết. Mỗi nước không chỉ tăng cường tiềm lực kinh tế của
mình, mà còn mở rộng buôn bán với các nước khác. Ngày nay, trừ Cộng hòa Dân
chủ Nhân Dân Triều Tiên, các nước trên thế giới đều được liên kết với nhau.và trở
thành bộ phận của thị trường toàn cầu. Thậm chí, cả Cuba do Đảng Cộng Sản cầm
quyền, cũng coi đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng nhất định trong nền kinh
tế.
Xu hướng liên kết toàn thế giới thành một thị trường thống nhất đang được
đẩy mạnh hơn.Nó phản ánh quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay. Với việc
thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hầu như tất cả các nền kinh tế
của thế giới có khả năng thiết lập ngày càng nhiều mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau.[4,22] Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ:
Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh, đặc biệt là cách mạng
thông tin bùng nổ đã có những tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế. Cuộc cách
mạng này đã làm giảm chi phí viễn thông cũng như vận tải, xóa đi khoảng cách

21

trong hoạt động kinh tế.Chi phí điện thoại, điện tín và vận tải giảm mạnh đã cho
phép có sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các thị trường, nhà sản xuất, nhà cung ứng
và người tiêu dùng.Các hoạt động kinh doanh, bao gồm hoạt động mua bán và dịch
vụ cũng như các giao dịch tài chính khác, có thể được thực hiện từ xa thông qua
mạng lưới viễn thông.Điều này còn được tiến hành thuận lợi hơn nữa thông qua
Internet và các công nghệ hiện đại khác. Kết quả là việc mua bán thông qua điện
thoại và hệ thống Internet, hội thảo qua điện thoại, giáo dục từ xa qua băng hình
và trên vô tuyến truyền hình, và thậm chí, cả làm việc qua điện thoại đã trở thành
các hoạt động phổ biến, đem lại hiệu quả về chi phí. Điều này làm cho quá trình
hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu phát triển nhanh và trở thành xu thế không
thể đảo ngược. Tình hình đó đặt tất cả các nước dù lớn hay nhỏ trước những cơ
hội mới và thách thức mới.
Sự nổi lên của Trung Quốc với chiến lược vươn ra biển Đông:
Sự nổi lên của Trung Quốc cũng là một nhân tố được tính đến khiến cho Ấn
Độ và các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Về
nhiều mặt như kinh tế, quốc phòng, công nghệ, Trung Quốc ngày càng nổi lên như
một siêu cường quốc.Lực lượng Hoa kiều ở Đông Nam Á mạnh, đóng vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị, kinh tế của nhiều quốc gia trong khu vực. Dù cựu
thủ tướng Manmohan Singh nói rằng có đủ không gian để Ấn Độ và Trung Quốc
phát triển song không thể xua tan mối lo ngại về Trung Quốc.[4,25] 1.3.3. Chính sách hướng Đông của Ấn Độ
Vào đầu những năm 1990, dưới thời thủ tướng Narasimha Rao, Ấn Độ bắt
đầu đề xuất “chính sách hướng Đông” (LEP). Mặc dù vậy, đến giữa những năm
1990, chính sách này mới được triển khai.Mục tiêu chính của chính sách hướng
Đông khi mới hình thành đầu những năm 1990 là tăng cường quan hệ với ASEAN.
Chính sách này dần được mở rộng ra các khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dương,
tạo thuận lợi cho Ấn Độ có các mối liên kết gần gũi hơn với Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, New Dilân, Fiji, Papua New Guinea và các quốc đảo ở
Thái Bình Dương.”[4,29] Chính sách hướng Đông được chính phủ Ấn Độ chia làm 2 giai đoạn: giai

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *