BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA
BÊN THỨ BA TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG VÀ THỰC
TIỄN TẠI AGRIBANK HUYỆN HOÀNH BỒ, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
HOÀNG DIỆU THU
Hà Nội – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA
BÊN THỨ BA TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG VÀ THỰC
TIỄN TẠI AGRIBANK HUYỆN HOÀNH BỒ, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Hoàng Diệu Thu
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Hà Công Anh Bảo
Hà Nội – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản
của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng và thực tiễn tại Agribank Huyện
Hoành Bồ, Tỉnh quảng Ninh” dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hà Công Anh
Bảolà công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Trường đại học Ngoại thương.
Hà Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2019
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Diệu Thu
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………………..
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT……………………………………………
vi
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………
1
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẾ
CHẤP TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO NGHĨA VỤ TRẢ NỢ TRONG
HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM
NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA BÊN
THỨ BA…………………………………………………………………………………….
5
1.1 Khái niệm về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng………………………………………………………………
5
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm nghĩa vụ trả nợ…….
5
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng …………………………………………………………………
7
1.1.3 Bản chất và vai trò của thế chấp bằng tài sản của bên thứ
ba đối để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của
ngân hàng ……………………………………………………………………………………
8
1.1.3.1 Bản chất của thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba đối
để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của ngân
hàng ……………………………………………………………………………………………
8
1.1.3.2 Vai trò, sự cần thiết của thế chấp bằng tài sản của bên
thứ ba để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của
ngân hàng…………………………………………………………………………………….
13
1.1.4 Phân biệt bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp bằng
tài sản của bên thứ ba với các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ khác
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng ………………………………………….
14
1.1.4.1 Phân biệt đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
sản của bên thứ ba với cầm cố tài sản………………………………………………
15
1.1.4.2 Phân biệt đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
iii
sản của bên thứ ba với bảo lãnh………………………………………………………
17
1.2 Pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng…..
20
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín
dụng của ngân hàng ……………………………………………………………………..
20
1.2.2 Nội dung pháp luật ………………………………………………….
21
1.2.2.1 Quy định nghĩa vụ của ngân hàng trong bảo đảm an
toàn vốn cho vay………………………………………………………………………….
21
1.2.2.2 Quy định về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
sản của bên thứ ba trong hợp đồng bảo đảm tiền vay…………………………
24
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA BÊN
THỨ BA TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG VÀ THỰC
TIỄN TẠI AGRIBANK HUYỆN HOÀNH BỒ QUẢNG NINH……
35
2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm nghĩa vụ trả
nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong quá trình xác lập
giao dịch bảo đảm tiền vay…………………………………………………………..
35
2.1.1 Các quy định về giao dịch thế chấp bằng tài sản của bên
thứ ba………………………………………………………………………………………….
35
2.1.1.1 Thế chấp ………………………………………………………………
35
2.1.1.2 Bảo lãnh ……………………………………………………………….
36
2.1.2 Các quy định về hiệu lực của giao dịch thế chấp bằng tài
sản của bên thứ ba ………………………………………………………………………..
37
2.1.3 Về chủ thể tham gia hoạt động bảo đảm tiền vay bằng
thế chấp tài sản của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại …………………
40
2.1.3.1 Bên nhận bảo đảm …………………………………………………
41
2.1.3.2 Bên được bảo đảm (bên đi vay) ……………………………….
42
iv
2.1.3.3 Bên bảo đảm………………………………………………
42
2.1.4 Về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng thế chấp tài sản của
bên thứ ba ……………………………………………………………………………………
44
2.2 Thực trạng pháp luật về thế chấp bằng tài sản của bên
thứ ba trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay…………………..
51
2.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng
tại Agribank Huyện Hoành Bồ Quảng Ninh…………………………………
57
2.3.1 Một số nét chính về Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Huyện Hoành Bồ Quảng Ninh ………………………………..
57
2.3.1.1 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Hoành Bồ Quảng Ninh…..
57
2.3.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Agribank Hoành Bồ
58
2.3.1.3 Cơ cấu tổ chức chi nhánh…………………………….
58
2.3.1.4 Các hoạt động chủ yếu của Agribank Huyện Hoành
Bồ, Tỉnh Quảng Ninh ………………………………………………………..
59
2.3.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng tại
Agribank Huyện Hoành Bồ Quảng Ninh…………………………………….
60
2.3.2.1 Một số kết quả đạt được ……………………………..
60
2.3.2.2 Một số tồn tại và khó khăn……………………………..
61
CHƢƠNG III: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ
CHẤP TÀI SẢN CỦA BÊN THỨ BA TRONG HOẠT ĐỘNG
CẤP TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NÓI CHUNG
VÀ TẠI AGRIBANK HUYỆN HOÀNH BỒ TỈNH QUẢNG NINH
NÓI RIÊNG ……………………………………………………………………………….
63
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và phƣơng hƣớng
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp
v
tài sản của bên thứ ba …………………………………………………………………
63
3.2 Một số phƣơng hƣớng cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật
v
ề
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba
65
3.2.1 Thống nhất và cụ thể hóa các quy định về bảo đảm nghĩa
vụ tiềnvay ……………………………………………………………………………………
65
3.2.2 Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc xác
lập và thực hiện giao dịch bảo đảm tiền vay……………………………………..
66
3.2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc xử
lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ …………………………………………………….
70
3.3 Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong
hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam
74
3.3.1 Nâng cao chất lượng của việc áp dụng pháp luật trong
đăng ký giao dịch bảo đảm ……………………………………………………………
74
3.3.2 Tập trung hóa thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm
74
3.3.3 Hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro tín dụng, trong đó có
quản lý rủi ro của tài sản bảo đảm ……………………………………………………
75
3.3.4 Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng
76
3.3.5 Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực …………
77
3.4 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba
trong hoạt động cấp tín dụng tại Agribank Huyện Hoành Bồ Tỉnh
Quảng Ninh……………………………………………………………………………….
77
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………..
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Cụm từ viết tắt
BLDS
Bộ luật Dân sự
NHTM
Ngân hàng thương mại
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về vốn cho phát triển, mở rộng đầu
tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, thành phần kinh tế là rất lớn. Khi đó
hệ thống ngân hàng (đại diện là các Ngân hàng thương mại) chính là nơi cung cấp
vốn chủ yếu. Với vai trò, vị trí của mình, các ngân hàng thương mại có chức năng
đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, nó là đòn bẩy cho nền kinh tế
phát triển. Các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính – là nơi
được thực hiện huy động tiền gửi từ phía công chúng – có trách nhiệm hoàn trả vốn
vay của người gửi, thực hiện cho vay đối với khách hàng có nhu cầu về vốn.
Cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng thương
mại tuy nhiên hoạt động cho vay cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì vậy để đảm bảo
lợi ích, hạn chế rủi ro khi ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn đồng thời
bảo đảm sự an toàn cho hệ thống ngân hàng thì các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ là vấn đề trọng tâm và có vai trò to lớn trong hoạt động cho vay của
các Ngân hàng thương mại.
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều biện pháp bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ dân sự nói chung và bảo đảm nghĩa vụ trả nợ nói riêng. Thực tiễn
hoạt động tín dụng Ngân hàng cho thấy, trong số các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
thì thế chấp là biện pháp bảo đảm được sử dụng phổ biến nhất. Thế chấp tài sản để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ có hai trường hợp: thế chấp tài sản của chính bên vay (bên
có nghĩa vụ) và thế chấp tài sản của bên thứ ba. Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế
chấp tài sản của bên thứ ba có một số đặc thù khác biệt so với thế chấp thông
thường. Việc khách hàng vay sử dụng tài sản của bên thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ của mình bằng hình thức thế chấp trong thời gian vừa qua được sử dụng rộng
rãi. Tuy nhiên vẫn còn nhiều Hợp đồng tín dụng xuất phát từ bảo đảm nghĩa vụ trả
nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba gây ra nhiều tranh cãi bởi quan điểm khác
nhau về vấn đề này.
2
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
sản của bên thứ ba trong quan hệ tín dụng mang tính thời sự, có ý nghĩa quan trọng
đối với việc nâng cao nhận thức và góp phần tạo sự ổn định của các quan hệ kinh tế,
hạn chế tranh chấp phát sinh do nhận thức pháp luật chưa đúng đắn. Do vậy để góp
phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và để khắc
phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tôi chọn đề tài
“Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp
tín dụng và thực tiễn tại Agribank Huyện Hoành Bồ, Tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và bảo đảm tiền vay bằng
thế chấp tài sản của bên thứ ba nói riêng đã được đề cập ở rất nhiều công trình
nghiên cứu trong sách, báo, tạp chí như: “Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của tổ
chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam” (Trần Thanh Thanh, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật quốc gia Hà Nội 2012); “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” (Vũ Thị Hồng Yến,
luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật quốc gia Hà Nội 2013); “Một số vấn đề pháp
lý về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba” (Đoàn Thái Sơn, đăng trên
Tạp chí ngân hàng số 12/2012)… Các công trình nghiên cứu nói trên là tài liệu tham
khảo hữu ích. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên chỉ có một phần rất nhỏ
đề cập đến nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba. Hiện nay cùng với
sự thay đổi của chính sách, pháp luật; thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này còn
nhiều quan điểm khác nhau. Xuất phát từ việc thừa kế những công trình nghiên cứu
có liên quan đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong nước, người viết
quyết tâm nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, thực tiễn áp dụng biện
pháp bảo đảm bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba tại Agribank Huyện Hoành Bồ,
Tỉnh Quảng Ninh, từ đó đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này là cần thiết và có ý nghĩa.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại Ngân hàng thương mại và
thực tiễn áp dụng tại Agribank Huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định về chủ thể, hợp đồng
và xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba, thực tiễn hoạt động bảo đảm nghĩa vụ trả
nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba tại Agribank Huyện Hoành Bồ Tỉnh Quảng
Ninh.
Phạm vi về thời gian: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu căn cứ vào sự thay đổi của
Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 và thực tiễn tại
Agribank Huyện Hoành Bồ, Tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lí luận về bảo đảm
nghĩa vụ dân sự bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba, làm rõ thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba trong
quan hệ tín dụng, làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong
các quy định của pháp luật hiện hành để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến
nghị hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luât về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu thì đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
– Làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm nghĩa vụ dân sự bằng thế chấp tài sản của
bên thứ ba
– Nghiên cứu và đánh giá thực trạng qui định pháp luật về giao dịch bảo đảm
bằng tài sản của bên thứ ba trong quan hệ tín dụng
– Đánh giá thực tiễn áp dụng qui định pháp luật về giao dịch bảo đảm bằng tài
sản của bên thứ ba trong quan hệ tín dụng tại Agribank Huyện Hoành Bồ, Tỉnh
Quảng Ninh
4
– Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luât về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
tại các ngân hàng thương mại.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài
luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, đánh giá,
đối chiếu, so sánh, tổng hợp… Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào các vụ việc
thực tiễn cũng như thông tin trên mạng internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các nội
dung cần nghiên cứu của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa
vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng và pháp luật bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng
thế chấp tài sản của bên thứ ba.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài
sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng và thực tiễn tại Agribank Huyện
Hoành Bồ Tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân
hàng thương mại nói chung và tại Agribank Huyện Hoành Bồ Tỉnh Quảng Ninh nói
riêng.
Tuy nhiên đây là lĩnh vực rộng lớn và phức tạp do đó những nhận định của cá
nhân không sao tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý,
chỉ bảo của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
5
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI
SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO NGHĨA VỤ TRẢ NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN
DỤNG VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ TRẢ NỢ BẰNG THẾ CHẤP
TÀI SẢN CỦA BÊN THỨ BA
1.1 Khái niệm về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
Hiện nay vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt điều chỉnh
đối với đảm bảo nghĩa vụ trả nợ nói chung. Tuy nhiên có thể thấy nghĩa vụ trả nợ
thường được đặt ra trong hoạt động cho vay tài sản. Hay nói cách khác chính là sự
thỏa thuận của các bên trong Hợp đồng vay tài sản, theo đó bên cho vay giao tài sản
cho bên vay, khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại
theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật
có quy định. Trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì bên cho vay sẽ áp
dụng các biện pháp như đã thỏa thuận trước thời điểm cho vay để thu hồi lại khoản
nợ.
Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản “Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ” chính “là
việc bên cho vay sử dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra đồng
thời tạo ra cơ sở pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho bên vay vay nợ”. Các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của bên vay có thể bằng tài sản hoặc không bằng
tài sản. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập đến các biện pháp bảo
đảm nghĩa vụ bằng tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay
hoặc của bên thứ ba, có thể bằng tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành từ vốn
vay.
Xét từ góc độ kinh tế, sự bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ là một biện pháp
mang tính kinh tế, trong đó bên chủ nợ sẽ dùng giá trị tài sản của người vay hoặc
của người thứ ba để khấu trừ nghĩa vụ. Nói cách khác, việc bảo đảm bằng tài sản
của chính người vay hoặc tài sản của bên thứ ba sẽ tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho
việc khấu trừ nghĩa vụ của người vay đối với bên cho vay. Xét từ góc độ này, biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ chỉ có ý nghĩa khi tài sản đem bảo đảm có khả năng
6
phát mại dễ dàng và giá trị tài sản bảo đảm đủ lớn để thanh toán hết số nợ vay cho
chủ nợ.
Xét từ góc độ pháp lý, bảo đảm nghĩa vụ trả nợ có bản chất là một quan hệ
pháp luật mà hệ quả pháp lý của việc xác lập quan hệ đó là tạo ra quyền ưu tiên cho
một bên, gọi là bên nhận bảo đảm – bên có quyền, trong việc theo đuổi các tài sản
bảo đảm để thu hồi nợ cho mình; đồng thời cũng tạo ra các nghĩa vụ cho bên bảo
đảm trong việc giúp đỡ bên nhận bảo đảm thực hiện quyền ưu tiên của mình trên tài
sản bảo đảm.
Trong khoa học pháp lý cũng như pháp luật thực định ở nhiều nước, người ta
chấp nhận rằng sự bảo đảm cho một nghĩa vụ dân sự nói chung và nghĩa vụ trả nợ
nói riêng có thể được xác lập bằng một hợp đồng (gọi là hợp đồng bảo đảm) hoặc
bằng các quy định sẵn có của pháp luật, thậm chí được xác lập theo quyết định của
Tòa án. Mặc dù sự bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản có thể được thiết lập bằng
nhiều cách khác nhau nhưng cách chủ yếu vẫn là thông qua một hợp đồng giữa một
bên là chủ tài sản (có thể là chính bên vay hặc bên thứ ba) với bên kia là chủ nợ.
Ở mức độ khái quát có thể cho rằng, bảo đảm nghĩa vụ trả nợ thực chất là một
loại hình cụ thể của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, vì thế, giao dịch này có đầy
đủ các dấu hiệu và đặc điểm cơ bản của giao dịch bảo đảm nghĩa vụ dân sự như là:
Thứ nhất, giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tạo ra hệ quả pháp lý là: một mặt
hạn chế quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tài sản bảo đảm của chủ
sở hữu tài sản; mặt khác thiết lập cho bên chủ nợ – bên nhận bảo đảm có quyền
được ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, so với các chủ nợ khác.
Thứ hai, mục đích của giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ là đảm bảo thi hành
nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng vay tài sản. Nghĩa vụ này được xác định bao
gồm nợ gốc, nợ lãi, các phụ phí, tiền phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản và tiền bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ ba, giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ có tính chất là một hợp đồng phụ
và hiệu lực của nó phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng).
Điều đó có nghĩa là, nếu hợp đồng chính mà vô hiệu thì đương nhiên dẫn tới sự vô
7
hiệu theo của Hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Ngược lại nếu hợp đồng bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ bị vô hiệu thì không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng chính
và khi đó khoản vay theo hợp đồng chính sẽ trở thành khoản vay không có bảo đảm
bằng tài sản.
Thứ tư, đối tượng của giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ luôn là một tài sản
hoặc khối tài sản cụ thể trị giá được bằng tiền.
Thứ năm, tài sản bảo đảm trong giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ có thể được
phát mại khi người vay không thi hành nghĩa vụ trả nợ vào ngày đáo hạn. Việc phát
mại này phải được thực hiện theo phương án mà các bên đã thỏa thuận hoặc phương
án do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của Ngân hàng thương mại –
NHTM (chủ yếu là hoạt động cho vay), hoạt động này liên quan mật thiết với các
ngành, lĩnh vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong hoạt
động cho vay của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực
mà ngân hàng cho vay.
Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi
khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động đó luôn hàm
chứa rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy, trong hoạt động tín dụng của mình, các NHTM
luôn chú trọng đánh giá về khả năng bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
Theo Từ điển luật học, bảo đảm nghĩa vụ trả nợ, hay còn gọi là bảo đảm tiền
vay, được định nghĩa là “biện pháp được sử dụng để bên cho vay thu hồi nợ trong
trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoàn trả
tiền vay”.
Còn theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày
29.12.1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (được sửa đổi, bổ sung
bằng nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25.10.2002) quy định “Bảo đảm tiền vay là
8
việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh
tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”.
Hay nói cách khác, bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của người đi vay và
NHTM trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm thiết lập các biện pháp tác động
mang tính chất dự phòng để đảm bảo việc trả nợ vốn vay, ngăn ngừa vi phạm và tạo
khả năng khắc phục hậu quả do vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay gây ra.
Có thể chia bảo đảm tiền vay thành hai loại: bảo đảm tiền vay bằng tài sản và
bảo đảm tiền vay không bằng tài sản.
Pháp luật hiện hành không có quy định về khái niệm nghĩa vụ bảo đảm tiền
vay mà theo đó quy định theo hướng liệt kê các biện pháp bảo đảm, cụ thể, Bộ luật
dân sự 2015 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm thì biện pháp bảo
đảm tiền vay bằng tài sản gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược;
Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo lãnh. Nhưng trên thực tế, số lượng các biện
pháp bảo đảm được sử dụng trong hoạt động cho vay của các NHTM ít hơn so với
các biện pháp bảo đảm được quy định trong Bộ luật dân sự 2015 và Nghị định 163.
1.1.3 Bản chất và vai trò của thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba đối để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng
1.1.3.1 Bản chất của thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba để đảm bảo nghĩa
vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng
Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản là việc bên có nghĩa vụ (khách hàng vay
vốn) hoặc bên thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho
nghĩa vụ xác lập được thực hiện. Thực chất, ở loại biện pháp này, bên bảo đảm xác
nhận cho bên nhận bảo đảm có quyền năng chi phối đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình. Tài sản bảo đảm có thể là bất động sản, động sản, quyền tài sản. Khi
nghĩa vụ bị vi phạm – khách hàng không trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng hoặc bên thứ ba thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ tại NHTM được xử lý để thu hồi nợ, bảo đảm quyền lợi cho bên
có quyền.
9
Hiện nay việc áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để đảm bảo cho
nghĩa vụ trả nợ vay của khách hàng tại ngân hàng là việc làm phổ biến trong hoạt
động cấp tín dụng tại các ngân hàng. Nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba là việc
ngân hàng nhận tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm
(chủ sở hữu tài sản bảo đảm hay còn gọi là “bên thứ ba”) để đảm bảo cho việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay vốn (bên có nghĩa vụ được bảo đảm) với ngân
hàng. Hợp đồng bảo đảm được ký kết trong trường hợp này là hợp đồng bảo đảm
bằng tài sản của bên thứ ba. Mối quan hệ hợp đồng này thường có sự tham gia của
ba bên: ngân hàng với vai trò là bên nhận bảo đảm, đồng thời là bên cho vay trong
quan hệ cấp tín dụng; chủ sở hữu tài sản là bên bảo đảm hay còn gọi là bên thứ ba
mang tài sản của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay với ngân
hàng; và khách hàng vay là bên được bảo đảm. Đối với trường hợp thế chấp tài sản
bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm được gọi là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ
ba.
Tuy nhiên thời gian vừa qua khi khách hàng vay không trả được nợ vay ngân
hàng theo thỏa thuận, ngân hàng lại tiến hành xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất của bên bảo đảm (bên thứ ba) để thu hồi nợ vay, và bên thứ ba khởi kiện
yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng bảo đảm vô hiệu. Trên thực tế, khi giải quyết loại
tranh chấp này, một số tòa án nhân dân các cấp (cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm) đã
tuyên hợp đồng bảo đảm của bên thứ ba là vô hiệu với lý do chủ yếu cho rằng, đây
là mối quan hệ ba bên nên đáng lẽ các bên liên quan phải ký kết hợp đồng bảo lãnh
(giữa ba bên), chứ không phải là hợp đồng thế chấp. Điều đáng lưu ý ở đây là các
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba này đã được các bên liên quan
hoàn tất thủ tục công chứng tại văn phòng công chứng và đăng ký thế chấp tại văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Điều 342 BLDS 2005 quy định “ Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi
là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài
sản đó cho bên nhận thế chấp”.
10
Điều 317 BLD 2015 quy định “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi
là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”.
So sánh các khái niệm trên ta thấy khái niệm thế chấp trong BLDS 2015 so
với BLDS năm 2005 thì khi phân loại theo tiêu chí chủ thể của nghĩa vụ sẽ có hai
trường hợp:
– Trường hợp thứ nhất: Thế chấp bằng tài sản của mình để đảm bảo cho việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bên có quyền. Trong trường hợp này đó
là sự cam kết của chính bên thế chấp về việc dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp
của mình để bảo đảm nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp. Hay nói cách khác thì bên
có nghĩa vụ chính là bên có tài sản.
– Trường hợp thứ hai: Thế chấp bằng tài sản của mình để đảm bảo cho việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác đối với bên có quyền. Trong trường hợp
này sẽ xuất hiện bên thứ ba tham gia vào quan hệ thế chấp, và người thứ ba này
chính là chủ thể của nghĩa vụ phải thực hiện.
Cũng căn cứ vào Điều 3.1 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, được sửa đổi, bố sung
bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 quy định “Bên bảo đảm là bên
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, dùng quyền sử dụng đất của mình, dùng uy tín
hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên nhận bảo đảm để bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự của chính mình hoặc của người khác, bao gồm bên cầm cố,
bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính
trị – xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp”.
Như vậy tùy biện pháp bảo đảm là bảo lãnh hay thế chấp mà chủ thể của nó
được gọi là bên bảo lãnh hay bên thế chấp.
Về vấn để bảo lãnh, tại Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định “Bảo lãnh là
việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây
gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây
gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
11
Như vậy có thể thấy bảo lãnh là việc bên bảo lãnh cam kết thực hiện thay
nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) mà không đưa ra bất kỳ tài sản
nào để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Bảo lãnh chỉ áp dụng trong
trường hợp bên bảo lãnh không chỉ định một tài sản cụ thể nào của mình để đảm
bảo cho cam kết thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên bảo lãnh chỉ định một tài sản cụ thể
nào đó làm tài sản thế bảo đảm, lúc này giao dịch sẽ trở thành cầm cố hay thế chấp.
Qua phân tích trên thấy rằng, quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp không
phải được phân biệt bằng việc xem xét quan hệ đó có hai hay ba bên tham gia, mà
điểm cơ bản để phân biệt quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp là: quan hệ bảo lãnh
là quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không có chỉ định tài sản cụ thể đảm bảo,
mà biện pháp bảo đảm chính là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo đảm, còn
quan hệ thế chấp là quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có chỉ định tài sản cụ thể
để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.
Hiện nay, trong tất cả các văn bản luật chuyên ngành và văn bản hướng dẫn thi
hành luật liên quan đến bảo đảm nghĩa vụ trả nợ đều quy định theo hướng chuyển
bảo lãnh bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba thành thế chấp tài sản của bên thứ ba.
Điều này thể hiện rõ nhất trong các quy định về giao dịch thế chấp bằng tài sản của
bên thứ ba với tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất. Cụ thể:
Căn cứ theo khoản 4 Điều 72 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định “Việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng
đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định tại
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai, quy định tại khoản 5 Điều 32, khoản 4 Điều 33, khoản 4 Điều
34, khoản 4 Điều 35 và khoản 1 Điều 36 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03
tháng 03 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng và các
văn bản hướng dẫn thi hành được chuyển thành việc thế chấp quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng của người thứ ba”.
Khoản 22 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
12
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định “Thay thế cụm từ “thế
chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng của người thứ ba” bằng cụm từ “thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ
của người khác” tại khoản 4 Điều 72”.
Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2014, đã bỏ đi quyền bảo
lãnh bằng QSDĐ đối với người sử dụng đất và chỉ công nhận quyền thế chấp
QSDĐ. Cụ thể Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định người sử dụng đất được thực
hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Đồng thời, các quy định pháp luật hiện
hành về đăng ký giao dịch bảo đảm đã bỏ các quy định về đăng ký bảo lãnh bằng
QSDĐ. Theo các quy định này, khi người sử dụng đất sử dụng QSDĐ của mình để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ vay của người khác (khách hàng vay) tại ngân hàng thì các
bên phải thực hiện ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để thực hiện nghĩa
vụ của người khác.
Xuất phát từ bản chất của bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của
bên thứ ba trong hoạt động cho vay của NHTM như đã phân tích ở trên, có thể suy
ra một số đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng thế chấp của bên thứ ba. Đó là:
– Trong quan hệ thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba thường có sự tham gia
của ba bên: Một là ngân hàng với vai trò là bên nhận thế chấp, đồng thời là bên có
quyền trong quan hệ cấp tín dụng; hai là chủ sở hữu tài sản là bên thế chấp tài sản
hay còn gọi là bên thứ ba mang tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
của khách hàng vay với ngân hàng; và cuối cùng là bên có nghĩa vụ hay chính là
khách hàng đi vay.
– Bên thứ ba thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo nghĩa
vụ trả nợ tiền vay của bên vay chứ không phải nghĩa vụ của chính minh.
– Bên thứ ba chỉ định tài sản thế chấp cụ thể dùng để đảm bảo. Trong trường
hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay, NHTM có quyền ưu tiên đối với tài
13
sản đã được thế chấp của bên thứ ba, có quyền xử lý chính tài sản đó để thu hồi nợ
vay theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Từ những phân tích trên các tổ chức tín dụng, ngân hàng, các cơ quan chức
năng hay các cá nhân, tổ chức đi vay… cần phải nhìn nhận đúng bản chất pháp lý
và những đặc trưng của bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ
ba trong hoạt động cho vay của NHTM để hạn chế tối đa mọi tranh chấp liên quan
có thể xảy ra.
1.1.3.2 Vai trò, sự cần thiết của thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng.
Hiện nay bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của người thứ
ba đang là giải pháp quản trị rủi ro khá phổ biến của các NHTM trong nước
và thực tế đang đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động cho vay của
NHTM. Sở dĩ việc bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trở nên quan trọng và cần thiết
đối với hoạt động cho vay của NHTM là vì các lý do cơ bản sau đây:
Một là, sự bảo đảm bằng tài sản cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay mang đến
cho chủ nợ là ngân hàng cả phương tiện kinh tế lẫn khả năng pháp lý để thu
hồi đủ số nợ tiền vay từ các hợp đồng tín dụng đã ký với khách hàng. Trong
khi tính rủi ro cao và tính ảnh hưởng dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác
nhau trong xã hội luôn là đặc trưng không thể phủ nhận của hoạt động cho
vay của các ngân hàng thì khả năng ngân hàng phải bán tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ là rất lớn. Chỉ thu hồi đủ nợ và đúng hạn thì ngân hàng mới có thể
thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ của ngân hàng như người gửi tiền,
người sở hữu trái phiếu ngân hàng, người cho vay khác đối với ngân hàng và
đặc biệt là giúp ngân hàng tránh được nguy cơ phá sản, giúp cho nền kinh tế
tránh được những biến cố bất lợi.
Hai là, trong bối cảnh nền kinh tế – tài chính của Việt Nam đang từng
bước được xây dựng và hoàn thiện thì những yếu kém và tính không rõ ràng,
minh bạch trong cơ chế tài chính, kế toán, kiểm toán hiện hành của nước ta
cũng là điều khó tránh. Vì vậy, khi tiến hành cho vay, các ngân hàng không thể dựa
14
hoàn toàn vào các bản báo cáo tài chính, phương án kinh doanh – trả
nợ… của khách hàng. Thậm chí ngay cả khi khẳng định được rằng tình hình
tài chính của một khách hàng là tốt, phương án kinh doanh khả thi nhưng
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường thì vẫn có thể
xảy ra những sự kiện rủi ro không lường trước được, dẫn đến khách hàng vay
không thể trả được nợ cho ngân hàng. Đó là chưa kể đến việc các khách
hàng vay vốn không thiện chí trả nợ, thậm chí lạm dụng tín nhiệm, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Những điều này buộc các ngân hàng
phải tính đến giải pháp chắc chắn hơn, đó là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ
hoàn trả nợ vay.
Xuất phát từ sự cần thiết nêu trên mà bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế
chấp tài sản của bên thứ ba là một trong những biện pháp bảo đảm quan
trọng được các NHTM ở Việt Nam sử dụng hầu hết trong các hợp đồng cho
vay có bảo đảm. Đồng thời thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba có vai trò to lớn
trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay của NHTM
Việt Nam cụ thể:
– Thứ nhất, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba là cơ sở pháp lý để
thu hồi được các khoản nợ đã cho bên vay vay nợ, từ đó đảm an toàn trong
hoạt động cho vay của NHTM, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
– Thứ hai, Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ
ba kích thích hoạt động cho vay của NHTM đối với khách hàng vay.
– Thứ ba, bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
tạo ra và mở rộng cơ hội cho khách hàng vay vốn tại NHTM;
– Thứ tư, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba có vai trò quan trọng
trong việc hạn chế các tranh chấp xảy ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng.
1.1.4 Phân biệt bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp bằng tài sản của
bên thứ ba với các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ khác trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng
15
BLDS hiện hành quy định có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
nói chung, còn trong bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cũng như trong thực tiễn hoạt động
cho vay của các NHTM thì người ta thường chỉ biết đến ba biện pháp chủ yếu là
cầm cố, bảo lãnh và thế chấp bằng tài sản. Chính vì lẽ đó, bài viết chỉ đề cấp đến ba
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ là cầm cố tài sản, bảo lãnh và thế chấp, đồng
thời làm rõ sự khác biệt giữa đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên
thứ ba với cầm cố tài sản; và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên
thứ ba với bảo lãnh trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.4.1 Phân biệt đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ
ba với cầm cố tài sản
Trong bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của NHTM thì biện pháp bảo đảm bằng thế
chấp tài sản được chia làm hai trường hợp là thế chấp bằng tài sản của mình để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng và thế chấp bằng tài sản của mình
để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho người khác đối với ngân hàng. Đối với trường hợp
dùng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho người khác chính là hình
thức bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba.
Việc phân biệt cầm cố tài sản và thế chấp tài sản của bên thứ ba để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng có sự khác biệt qua các thời kỳ. Theo quy định của
BLDS 1995 trước đây thì phân biệt cầm cố và thế chấp dựa trên cơ sở tài sản bảo
đảm nghĩa vụ là bất động sản hay động sản. Nhưng hiện nay theo quan điểm của
BLDS 2005 và BLDS 2015 thì lại chỉ quan tâm tới việc chuyển giao có tính chất vật
lý của tài sản cầm cố để phận biệt với biện pháp thế chấp tài sản cụ thể:
Điều 326 BLDS 2005 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi
là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”
Điều này cũng được quy định tương tự như Điều 309 BLDS 2015. Như vậy, từ
việc trích dẫn các quy định pháp luật nêu trên thì quan hệ cầm cố đòi hỏi phải có sự
chuyển giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố quản lý trong thời hạn của
hợp đồng cầm cố hay hợp đồng được bảo đảm. Theo quy định hiện hành, biện pháp
16
cầm cố có những đặc điểm cơ bản là: bên cầm cố bắt buộc phải giao tài sản thuộc sở
hữu của mình cho bên nhận cầm cố giữ; bên cầm cố có thể chính là người có nghĩa
vụ hoặc là bên thứ ba đứng ra cầm cố tài sản của mình để bảo đảm việc trả nợ của
bên có nghĩa vụ; tài sản bảo đảm bằng cầm cố thường là động sản vì về nguyên tắc
tài sản này phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ, mặc dù pháp luật hiện
hành không chỉ định rõ tài sản cầm cố phải là động sản hay bất động sản.
Thế chấp cũng là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản, theo đó một
bên dùng tài sản để đảm bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ nhưng điểm khác biệt
cơ bản của thế chấp so với cầm cố là không có sự chuyển giao tài sản của bên thế
chấp sang cho bên nhận thế chấp. Cũng gống như quy định về cầm cố, pháp luật
Việt Nam qua từng thời kỳ cùng có những quy định khác nhau về thế chấp.
Điều 346 BLDS 1995 quy định “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng
tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối
với bên có quyền…”
Tuy nhiên Điều 317 BLDS 2015 quy định “Thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
Điều này đã thay đổi quy định về thế chấp theo hướng không quy định về loại
tài sản được đem ra thế chấp, cũng như không quy định bắt buộc tài sản thế chấp đó
phải là của bên đi vay, và không chyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Cũng
theo quy định của BLDS 2015 thì hoạt động thế chấp để đảm bảo tiền vay tại ngân
hàng có thể bằng tài sản của chính người đi vay hoặc có thể bằng tài sản của bên thứ
ba; và không có quy định tài sản cụ thể là động sản hay bất động sản, do đó tài sản
thế chấp theo quy định của pháp luật hiện hành có thể là động sản hoặc bất động
sản.
So với cầm cố tài sản thì thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật hiện
hành có sự khác biệt cơ bản về việc có chuyển giao tài sản hay không? Bên thế chấp
không có nghĩa vụ phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp. Bên thế chấp ở
đây có thể là bên có nghĩa vụ hoặc bên thứ ba miễn sao có tài sản đưa vào thế chấp.
17
Như vậy gắn liền với đặc điểm không chuyển giao tài sản thì bên thế chấp vẫn có
quyền khai thác công dụng của tài sản, sử dụng tài sản để phục vụ nhu cầu của
mình. Hặc bên thế chấp vẫn có thể cho người khác thuê, mượn tài sản của mình để
sử dụng. Còn đối với cầm cố tài sản thì cả bên đi vay và bên cho vay đều không
được sử dụng tài sản kể từ thời điểm xác lập giao dịch, cho đến khi bên vay thực
hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Chính vì vậy, đây là ưu điểm lớn nhất của thế
chấp bằng tài sản của bên thứ ba so với cầm cố tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.4.2 Phân biệt đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng thế chấp tài sản của bên thứ
ba với bảo lãnh
Trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp tín dụng vẫn còn khó khăn trong việc
phân biệt giữa thế chấp tài sản của bên thứ ba và bảo lãnh bởi chưa nắm bắt được sự
thay đổi của các quy định pháp luật về vấn đề này, chính vì thế gây nên nhiều
vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp tín dụng tại tòa án. Vậy nên việc phân
biệt thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba với bảo lãnh trong hoạt động cho vay của
NHTM là một mục tiêu quan trọng trong bài viết này cũng như trong thực tiễn xét
xử tại tòa án.
Bảo lãnh có thể được hiểu là bên thứ ba cam kết với bên có quyền về việc họ
sẽ đứng ra thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà
người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Theo như những phân tích bên trên thì về bản chất của thế chấp bằng tài sản
của bên thứ ba đối với nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay của NHTM, ta có
thể thấy rằng sự phân biệt giữa thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba và bảo lãnh
trong giao dịch dân sự nói chung và trong hoạt động cho vay của NHTM nói riêng
không phải dựa vào việc có những bên nào tham gia vào quan hệ thế chấp hay bảo
lãnh, mà cần phải xem xét tới việc có chỉ định tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
hay không? Tức là đối với biện pháp bảo lãnh thì người thứ ba đứng ra bảo đảm
nghĩa trả nợ cho người đi vay nhưng không cần phải xác đinh tài sản cụ thể của
mình là gì để đưa vào trong hợp đồng bảo lãnh, còn đối với thế chấp bằng tài sản