BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
——————————-
ISO 9001:2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH VĂN HÓA DU LỊCH
Sinh viên
:Phạm Văn Duy
Giảng viên hướng dẫn
:Ths. Nguyễn Thị Phương Thảo
HẢI PHÒNG – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
———————————–
NGHIÊN CỨU KHAI THÁC LỄ HỘI ĐỀN TRẦN
HƯNG HÀ THÁI BÌNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH VĂN HÓA DU LỊCH
Sinh viên
:Phạm Văn Duy
Giảng viên hướng dẫn
:Ths. Nguyễn Thị Phương Thảo
HẢI PHÒNG – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
————————————–
NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Phạm Văn Duy
Mã số: 1412601107
Lớp: VH1802
Ngành: Văn hóa Du lịch
Tên đề tài: “Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái bình phục vụ
phát triển du lịch”
Mở Đầu ………………………………………………………………………………………………… 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ DU LỊCH LỄ HỘI ………………. 8
1.1. Cơ sở lý luận về lễ hội. ……………………………………………………………………… 8
1.1.1. Khái niệm lễ hội và mối quan hệ giữa lễ và hội. ………………………………. 8
1.1.1.1. Khái niệm về lễ hội. …………………………………………………………………….. 8
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa lễ và hội. ………………………………………………………….. 9
1.1.2. Đặc điểm của lễ hội. ………………………………………………………………….. 10
1.1.2.1. Về thời gian. …………………………………………………………………………….. 10
1.1.2.2. Về không gian. ………………………………………………………………………….. 10
1.1.2.3. Về quy trình tổ chức lễ hội.
…………………………………………………………. 10
1.1.3. Phân loại lễ hội và cấu trúc lễ hội. ………………………………………………. 11
1.1.3.1. Phân loại lễ hội. ……………………………………………………………………….. 11
1.1.3.2. Cấu trúc lễ hội. …………………………………. Error! Bookmark not defined.
1.2. Du lịch lễ hội. ………………………………………………………………………………… 14
1.2.1. Khái niệm. ………………………………………………………………………………….. 14
1.3. Vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa con người và đối với du lịch.
…. 16
1.3.1. Vai trò của lễ hội với đời sống văn hóa. ………………………………………….. 16
1.3.2. Vai trò của lễ hội với du lịch. ………………………………………………………… 16
1.4. Tác động qua lại giữa lễ hội và du lịch. …………………………………………….. 18
1.4.1. Tác động tích cực của lễ hội và du lịch.
………………………………………… 18
1.4.2. Tác động tiêu cực của lễ hội đến du lịch.
………………………………………. 20
Tiểu kết chương 1. ………………………………………………………………………………… 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC LỄ HỘI ĐỀN TRẦN, THÁI BÌNH
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH. ……………………………………………………….. 22
2.1. Khái quát về Đền Trần, Thái Bình…………………………………………………….. 22
2.1.1. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành Đền Trần. …………………………………….. 22
2.1.2. Các giá trị của Đền Trần, Thái Bình. …………………………………………… 24
2.2. Khái quát về lễ hội Đền Trần …………………………………………………………… 30
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển. …………………………………………………. 30
2.2.2. Các yếu tố cấu thành của lễ hội đền Trần.
…………………………………….. 31
2.2.3. Những giá trị đặc sắc của lễ hội. …………………………………………………. 36
2.2.4. Vai trò của lễ hội Đền Trần với sự phát triển du lịch của địa phương.. 37
2.3. Thực trạng khai thác lễ hội Đền Trần , Thái Bình phục vụ phát triển du lịch.
…………………………………………………………………………………………………………… 39
2.3.1. Số lượng khách, đối tượng khách.
………………………………………………… 39
2.3.2. Các hoạt động của du khách khi đến lễ hội……………………………………. 40
2.3.3. Các dịch vụ phục vụ khách du lịch trong lễ hội. …………………………….. 40
2.3.4. Công tác tổ chức lễ hội. ……………………………………………………………… 41
2.3.5. Thực trạng về công tác sử dụng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật
trong dịp lễ hội. ……………………………………………………………………………………. 43
2.4. Đánh giá những tích cực, hạn chế trong khai thác lễ hội Đền Trần cho phát
triển du lịch. ………………………………………………………………………………………… 45
2.4.1. Tích cực …………………………………………………………………………………… 45
2.4.2. Hạn chế ……………………………………………………………………………………… 47
Tiểu kết chương 2. ………………………………………………………………………………… 48
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC HIỆU QUẢ LỄ HỘI ĐỀN TRẦN,THÁI
BÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
………………………………………………………….. 49
3.1. Định hướng phát triển du lịch ở Đền Trần, Thái Bình. ………………………… 49
3.2. Một số gải pháp phát triển du lịch tại đền Trần. …………………………………. 49
3.2.1. Giải pháp quản lý khai thác và phát huy các giá trị của lễ hội trong phát
triển du lịch. ………………………………………………………………………………………… 49
3.2.2. Tu bổ cải tạo di tích đền Trần và lễ hội đền Trần. ……………………………. 51
3.2.3. Giải pháp tuyên truyền và quảng bá.
………………………………………………. 52
3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực du lịch. ……………………………………………………. 53
3.2.5. Xây dựng các chương trình , và các sản phẩm du lịch đặc trưng.
……….. 55
3.2.6. Xây dựng thương hiệu cho du lịch văn hóa ở Khu di tích đền Trần (Hưng
Hà – Thái Bình) ……………………………………………………………………………………. 58
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đền tài
Trong những năm gần đây, du lịch văn hóa đã trở thành xu hướng phát
triển của du lịch thế giới. Đặc biệt là những nước phát triển, trong đó có Việt
Nam. Việt Nam vốn là nước có nhiều di sản văn hóa, trong đó có 10 di sản được
UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (cả di sản văn hóa vật thể và di
sản văn hóa phi vật thể), có hơn 3000 di tích cấp quốc gia cùng với nhiều lễ hội
và làng nghề truyền thống. Đây là điểm rất thuận lợi để phát triển du lịch văn
hóa. Nắm bắt được cơ hội đó, nước ta đang tập trung vào phát triển loại hình du
lịch này, và đang từng bước đưa du lịch văn hóa trở thành loại hình du lịch mũi
nhọn của du lịch Việt Nam. Mặc dù, du lịch văn hóa là loại hình du lịch dễ khai
thác. Đối tượng khai thác của loại hình du lịch này dựa vào những tài nguyên du
lịch nhân văn có sẵn như: chùa chiền, các khu lăng miếu, lăng mộ; các nhà thờ,
các làng nghề thủ công truyền thống…
Lễ hội đền Trần xã Tiến Đức huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình là một trong
những lễ hội đặc sắc mang lại dấu ấn tốt đẹp cho du khách gần xa đến với lễ hội.
Tồn tại song song với việc khai thác và phát triển du lịch của tỉnh nhà khu di
tích đền Trần cũng như lễ hội đền Trần đã tạo được thành công nhất định, bên
cạnh những mặt thành công đó vẫn còn tồn tại những mặt khó khăn hạn chế đối
với việc phát triển lễ hội một cách thành công với quy mô lớn, góp phần nâng
cao cuộc sống người dân và phát triển du lịch của tỉnh Thái Bình
Mặt khác, sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Thái Bình – nơi khởi nghiệp và
phát tích của vương triều nhà Trần, nên tôi có điều kiện nghiên cứu và tìm hiểu
sâu hơn về Khu di tích và lễ hội đền Trần (Hưng Hà – Thái Bình). Với mong
muốn được đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào sự phát triển du lịch khu di
tích đền Trần tôi đã chọn đề tài “Khai thác lễ hội Đền Trần, Thái Bình phục vụ
phát triển du lịch” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, khảo sát về một công trình di tích lịch sử – văn hóa gắn với
những danh nhân của dân tộc ở Khu di tích đền Trần, Thái Bình. Từ đó tìm hiểu
phân tích đánh giá hiện trạng khai thác lễ hội đền Trần để phục vụ phát triển du
lịch. Từ đó đề xuất các giải pháp để khai thác hiệu quả hơn những giá trị của lễ
hội phục vụ phát triển du lịch.
3.Nhiệm vụ của đề tài.
Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về lễ hội và du lịch lễ hội.
Tìm hiểu hiện trạng khai thác lễ hội để phát triển du lịch tại khu di tích
trong những năm gần đây.
Đề xuất giải pháp nhằm góp phần bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội đền
Trần, Thái bình phục vụ phát triển du lịch.
4.Đối tượng và phạm vi nhiên cứu.
4.1. Đối tượng nhiên cứu.
Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần, Thái Bình phục vụ phát triển du
lịch.
4.2. Phạm vi nhiên cứu.
Lễ hội tại đền Trần, Thái Bình. Thời gian 2013-2018.
5.Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nhìn đối tượng nhiên cứu như một hệ
thống khảo sát phân tích.
Phương pháp so sánh: Để thấy cái chung và cái riêng của đối tượng nhiên
cứu.
Phương pháp thống kê: Để có cái nhìn khái quát về đối tượng nhiên cứu.
Phương pháp nhiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu.
Phương pháp điền dã: Khảo sát thực tế.
6.Bố cục của khóa luận.
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, khóa luận gồm ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lễ hội và du lịch lễ hội.
Chương 2: Thực trạng khai thác lễ hội đền Trần, Thái Bình phục vụ phát triển
du lịch.
Chương 3: Giải pháp khai thác hiệu quả lễ hội đền Trần, Thái Bình để phát triển
du lịch.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ DU LỊCH LỄ HỘI
1.1. Cơ sở lý luận về lễ hội.
1.1.1. Khái niệm lễ hội và mối quan hệ giữa lễ và hội.
1.1.1.1. Khái niệm về lễ hội.
Mỗi vùng miền, mỗi một quốc gia lại có hình thức tổ chức lễ hội khác
nhau. Chính vì thế đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt
văn hóa này. Sau đây là một số khái niệm điển hình về “Lễ hội’’ như:
Khi nhiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga, M.Bachie cho
rằng “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn. Đó
là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống
không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy
tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới
của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là cuộc sống, là thế giới thứ hai
thoát ly tạm thời thực tại hữu thiện, đạt tới hiện thực hữu tượng mà ở đó mọi thứ
đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”.
Ở Việt Nam khái niệm lễ hội mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu. Trước
hết chỉ có khái niệm lễ hoặc hội. Cả hai khái niệm này đều là từ gốc Hán được
dùng để gọi một số loại hình phong tục chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, lễ gia
tiên….., cũng như vậy trong hội cũng có nhiều hội khác nhau như: Hôi Gióng,
Hội Lim…., thêm chữ “Lễ” cho “hội” thời nay mong muốn gắn hình thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng này có ít nhất hai yếu tố cũng là hai đặc trưng đi liền
với nhau. Trước hết là lễ bái, tế thần linh, cầu phúc sau là thăm thú vui chơi ở
nơi đông đúc, vui vẻ.
Trong “Từ điển tiếng Việt”lại có định nghĩa về “ lễ hội ” như sau: Lễ là
hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối
với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc
sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn
giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và
phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia
đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu
của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ
“nhân khang, vật thịnh”.
Trong cuốn “ Hội hè Việt Nam ”các tác giả cho rằng “ Hội và lễ là một
sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp dẫn, lôi
cuốc các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu cầu, một
khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ”.
Trong cuốn “ Lễ hội cổ truyền” –Phan Đăng Nhật cho rằng “ Lễ hội là
một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn
hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xãhội –lịch sử quan trọng của dân tộc….Lễ hội
còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử
trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”.Như vậy ta thấy “Lễ hội”là một thể
thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu
xatrong mỗi con người.Hội là các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi
dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của người dân và một phần đời sống
cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọngvới cả cộng đồng.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa lễ và hội.
Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Do trình độ nhận thức còn
hạn chế, người xưa rất tin vào trời, đất, sông, núi. Ở các làng thường có miếu
thờ Tiên thần, Tổ thần, Thủy thần, Sơn thần và một số làng cũng nhận các vị
thần ấy là Thành hoàng làng. Lễ hội là hoạt động của tập thể người. Không có
con người tham gia tổ chức thì không thành hội được. Vì vậy, nhân vật hội là
yếu tố khá quan trọng của lễ hội. Ngoài những nhân vật chủ chốt như chủ tế, ban
khánh tiết, người khiêng kiệu, người cầm cờ, cầm lọng, phường nhạc,… còn phải
có sự đóng góp ngưỡng mộ của người xem thì hội mới càng thêm kết quả. Nếu
như lễ là một hệ thống tĩnh có tính quy phạm nghiêm ngặt được cử hành tại
chốn Đình trung thì trái lại, Hội là một sinh hoạt dân dã phóng khoáng diễn ra
trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò, tục hấp dẫn
do mình chủ động tham gia. Hội là một hệ thống trò chơi, trò diễn phong phú và
đa dạng, có thể kể đến các loại trò sau đây: trò chơi thượng võ, trò chơi thi tài,
trò chơi nghề nghiệp, trò chơi giải trí, trò chơi chiến đấu, trò chơi phong tục. So
với lễ, Hội là một yếu tố mở người ta có thể chuyển dịch hoặc thêm bớt các trò
chơi do điều kiện vật chất, thời tiết, nhân lực mà vẫn không ảnh hưởng đến tổng
thể (trừ những trò chơi nghi lễ, phong tục) .
Quan hệ giữa lễ và hội có lúc tách rời nhau đến dễ thấy: Một bên là
thiêng, một bên là tục; mỗi bên tưởng như có vai trò riêng của mình. Nhưng
trong nhiều trường hợp thì lại không đơn giản như vậy. Trong quá trình vận
động, hai yếu tố lễ và hội đã thâm nhập vào nhau một cách chặt chẽ, thiết tưởng
rằng gọi là Lễ cũng đúng mà gọi là Hội cũng không sai. Có thể lấy đám rước
làm ví dụ, ở đây phần nghi lễ rất nhiều mà phần tham gia biển diễn của đám
đông cũng không phải là ít.
Quan hệ giữa Lễ và Hội rất chặt chẽ, có lúc không thể tách bóc, ngay
trong Lễ đã có Hội và ngay trong Hội đã có Lễ. Lễ và Hội là hai yếu tố chính tạo
lên hội làng. Sự đậm, nhạt giữa chúng là tùy thuộc vào đặc điểm từng nơi và
tính chất từng loại hội.
1.1.2. Đặc điểm của lễ hội.
1.1.2.1. Về thời gian.
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và
mùa thu.Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời
ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố
cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
1.1.2.2. Về không gian.
Việc chọn những không gian linh thiêng thuộc về tự nhiên là nơi mở lễ
hội hàng năm như các khu rừng cấm, đầu nguồn nước, đình làng,… chính là một
trong những cách ứng xử của con người. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên chính là
một trong những cách ứng sử khôn ngoan của con ngưòi. Xét đến cùng đó là
thái độ trân trọng thế giới tự nhiên của con người.
Trong lễ hội có những không gian linh thiêng tự nhiên mà còn có cả
không gian linh thiêng xã hội. Đây là các quần thể kiến trúc gắn liền với các địa
điểm thiên nhiên linh thiêng, quần thể kiến trúc đó có thể to nhỏ và có các kiểu
loại khác nhau. Tuỳ từng nơi, từng dân tộc và từng đối tượng khác nhau. Nhưng
chúng đều gắn với một khoảng không gian nhất định, hơn nữa các quần thể kiến
trúc đó thường gắn với trình độ phát triển của từng thời kỳ lịch sử. Nhưng dù là
không gian tự nhiên hay nhân tạo đều bắt nguồn từ niềm tin linh thiêng của con
người nên những không gian đó đều mang tính chất linh thiêng. Những nơi đó là
nơi của thần thánh, của Phật nên những gì quý báu nhất, đẹp nhất hay nhất đều
tập trung về đây, khiến không gian đó càng linh thiêng quan trọng hơn. Con
người đã tạo ra một không gian đạt tới để con người cầu khấn, đặt niềm tin, hy
vọng. Từ tiền án đến hậu chảm, thương gia hạ trì…Những không gian linh
thiêng mang tính chất xã hội hay có thể gọi khác đó là những không gian linh
thiêng nhân tạo của các dân tộc Việt Nam như: Đền, Miếu, Đình, Chùa…
1.1.2.3. Về quy trình tổ chức lễ hội.
Thông thường địa phương nào mở hội đều tiến hành theo ba bước sau:
Chuẩn bị: Chuẩn bịlễhội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn
bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau
được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự
phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra,
công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước
làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần…
Vào hội : nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi
thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt
động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít
khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối
bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa
di tích.
1.1.3. Phân loại lễ hội và cấu trúc lễ hội.
1.1.3.1. Phân loại lễ hội.
Ở nước ta Lễ hội là sinh hoạt văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng, mà
lại thường đan xen hoà lẫn vào nhau về cả nội dung lẫn hình thức. Vì vậy việc
phân loại lễ hội càng trở nên cần thiết trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu. Tuy
nhiên, mỗi lễ hội đều có những tín ngưỡng riêng và với nhiều mục đích khác
nhau như: Lễ hội Nông nghiệp, Lễ hội Thi tài,…
Khi phân loại lễ hội theo mục đích thì cách thức tổ chức cũng có nhiều sự
khác nhau nhưng dựa trên phân tích và ý nghĩa và cội nguồn của hội làng.
Thường người ta chia lễ hội làm 5 loại:
– Lễ hội Nông nghiệp: Là loại lễ hội mô tả lại những lễ nghi liên quan đến
chu trình sản xuất nông nghiệp mang tích chất cầu mùa như: lễ hội Cơm mới, lễ
hội Lồng tồng,…
– Lễ hội Phồn thực Giao duyên: là loại lễ hội gắn với sinh sôi nảy nở cho
con người và vật nuôi, cây trồng mang tính chất tín ngưỡng phồn thực như: Lễ
hội chọn rể Tây Bắc, Chợ tình Khau Vai (Hà Giang),…
– Lễ hội văn nghệ: Là loại lễ hội hát dân ca nghệ thuật như: Hội Lim ở
Bắc Ninh, Hát chèo ở Thái Bình,…
– Lễ hội thi tài: Là loại lễ hội thi thốcác tài năng như Bắt trạch trong chum, thi
thổi cơm, bắt vịt trong ao,…
– Lễ hội lịch sử: Là loại lễ hội diễn tả lại các trò nhắc lại hay biểu dương
công tích các vị thành hoàng và những người có công với đất nước như: lễ hội
Đền Hùng, lễ hội Cổ Loa,…
Trong 5 loại lễ hội trên thì lễ hội lịch sử luôn gắn liền với những chuyến
đi của một hướng dẫn viên vì tất cả những nhân vật lịch sử đều gắn liền với các
nhân vật có thật như Vua Hùng, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo…
Năm 1989, Đinh Gia Khánh cũng đưa ra quan điểm chia lễ hội thành hai
loại đó là căn cứ vào lễ hội có nguồn gốc tôn giáo hay không tôn giáo.
Tôn Thất Bình khi khảo sát lễ hội truyền thống ở vùng Thừa Thiên Huế
lại chia lễ hội ở đây ra làm 4 loại:
– Lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh
– Lễ hội tưởng nhớ các sư tổ lành nghề
– Lễ hội tín ngưỡng tôn giao
– Lễ hội cầu mùa theo vụ
Ngoài ra, dưới góc độ xã hội học người ta còn phân loại thêm các hoạt
động lễ hội mang tính chất quốc gia, dân tộc hay quốc tế và những lễ hội thuộc
từng nhóm, từng vùng và các tôn giáo độc thần cụ thể.
Qua đó ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
Những cách phân loại như trên chưa rút ra được những nhận xét chung
mà mới phản ánh được những đặc điểm của lễ hội từng vùng, từng địa phương.
Vì vậy, theo tác giả Hoàng Lương trong cuốn “Lễ hội truyền thống của các dân
tộc Việt Nam khu vực phía Bắc – NXB Đại học quốc gia Hà Nội’’, chỉ có thể
phân lễ hội ra làm 2 loại chính:
– Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng cầu mùa:
Đây là loại lễ hội phổ biến nhất ở tất cả các dân tộc. Tuy ở một địa phương, mỗi
dân tộc có những nghi thức, nghi lễ khác nhau nhưng đều cùng chung một nội
dung cầu mùa. Những nội dung đó được thể hiện một cách sinh động ở các nghi
thức sau:
– Lễ thức liên quan đến chu trình sản xuất nông nghiệp, bao gồm các lễ
hội tái hiện các sinh hoạt kinh tế tiền nông nghiệp như săn bắn, hái lượm, lễ mở
của rừng, hội đánh cá và các lễ thức tái hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp
như hội cấy, trình nghề nông.
– Lễ thức cầu đảo: Cầu cho mưa thuận gió hoà thờ cá ông, cầu cho trời
yên bể lặng.
Lễ biểu dương: Dâng cúng các thành phần nông nghiệp như rước lợn
xôi, lễ ăn cơm mới.
– Lễ rước thờ cúng hồn lúa: Phổ biến ở các dân tộc thiểu số.
– Lễ rước trinh nghề: Liên quan đến vị tổ sư lành nghề.
– Lễ hội thi tài và các trò bách hí: Như thi nấu cơm, thi bắt dê.
– Lễ tín ngưỡng phồn thực: Nhằm biểu dương kết hợp âm dương cho con
người và sự vật sinh sôi nảy nở như hội cướp kén,…
– Lễ thức hát giao duyên: Hát xoan, hát ví dặm, quan họ.
Những lễ hội trên đều mang tính chất tín ngưỡng cầu mùa mong sao mùa
màng phong đăng hoà cốc, người an vật thịnh, ngành nghề phát triển. Vì vậy
không thể tách chúng ra thành các lễ hội khác nhau.
Lễ hội liên quan đến việc tượng niệm công lao các vị danh nhân văn hoá,
anh hùng dân tộc, các vị thành hoàng và các chư vị thánh phật.
Loại lễ hội này đều thờ cúng di tích liên quan đến các vị nhiên thần và
nhân thần đã có công khai sơn phá thạch, xây dựng gìn giữ bảo vệ làng xóm và
các chư vị thánh phật có công khai minh, khai mang đền chùa giúp dân diệt ác
trừ tà, bảo vệ cái thiện. Lưu ý ở đây là sự thờ cúng của các dân tộc miền núi chủ
yếu là lực lượng nhiên thần. Còn ở đồng bằng thì chủ yếu là lực lượng nhân thần
đó là:
Các lễ thức thờ cúng các thần thổ địa, rừng cây, thần cây đa, bến nước
như sơn thần, giang thần ở miền xuôi.
Lễ rước các vị danh nhân văn hoá, anh hùng lịch sử như Tản viên sơn thánh,
Chư vị thánh…lễ hội thờ Hai Bà Trưng, Thánh Gióng, Vua Hùng…
Lễ hội diễn ra liên quan đến các vị anh hùng có công với cách nước như
hội đền Kiếp Bạc.
Qua đó ta thấy được mục đính của lễ hội thể hiên được những chuẩn mực
những niềm tin về một lực lượng nhiên thần.
1.2. Du lịch lễ hội.
1.2.1. Khái niệm.
Lề hội là một hoạt động vãn hóa tinh thần mang tính phổ quát, trong khi
dó đu lịch là một hoạt động kinh tế mang tính tổng hợp. Trong bước đường phát
triển, ngành du lịch cũng phải tìm đến, khai thác và sử dụng lễ hội với tư cách
một sản phẩm văn hóa đạt hiệu quả cao trên nhiều mặt.Theo thông lệ có tính
truyền thống, lễ hội dân gian thường dược mờ vào những dịp nông nhàn, trong
khi đó du lịch là một hoại động dành cho du khách khi họ có thời gian, tiền bạc
và có nhiều nhu cầu khác. Việc gặp nhau giữa hai yếu tố tạm gọi là cung và cầu
như vậy thông qua hoạt động du lịch gọi là du lịch lễ hội. Như vậy việc tổ chức
các tour du lịch tới các dịa phương trên khắp miền đất nước trong một khoảng
thời gian nhất định trong năm mà thời gian đó trùng với thời gian mở hội của địa
phương. Hoạt động này giúp cho du khách tìm hiểu và thẩm nhận những giá trị
nhiều mặt thông qua hoạt động lễ hội của địa phương gọi là du lịch lễ hội.
Du lịch lễ hội còn là sự phối hợp tổ chức và hành động giữa các doanh
nghiệp du lịch dưới sự tổ chức điều phối của nhiều cơ quan, địa phương để tổ
chức liên hoan du lịch, lễ hội du lịch, festival văn hóa nghệ thuật. Đây cũng là
dịp quảng bá về địa phương nơi tổ chức lễ hội cũng là dịp để các công ty du lịch
đưa khách tới tham gia các hoạt động diễn ra trước và trong suốt thời gian diễn
ra liên hoan du lịch. Các công ty du lịch, các hãng lữ hành tổ chức đưa du khách
đến tham gia các lễ hội cũng là một phần của quá trình xích lại gần nhau giữa
các thành phần dân cư khác nhau với văn hóa, phong lục tập quán… giúp họ giao
lưu và tìm hiểu lẫn nhau. Đây thể hiện xu hướng tất yếu của quá trình quốc tế
hóa, toàn cầu hóa trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Lễ hội truyền thống Việt Nam là một thành phần đặc biệt quan trọng
trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Nó là sản phẩm văn hóa đặc biệt mà trong
tiến trình phát triển, tự thân ngành du lịch phải tìm tới, khai thác các giá trị nhiểu
mặt của nó để phục vụ kinh đoanh du lịch. Có thể nói rằng, lễ hội truyền thống
Việt Nam với tư cách là một sản phẩm văn hóa đặc sắc, một sản phẩm văn hóa
du lịch đặc biệt hấp dẫn, là nét riêng của du lịch Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
1.2.2. Đặc điểm của loại hình du lịch lễ hội.
Loại hình du lịch lễ hội là hoạt động du lịch gắn với thời gian mở hội do
vậy cũng giống như lễ hội, nó chỉ diễn ra theo thời gian mùa vụ: hàng năm
thường tập trung vào các tháng mùa Xuân và cuối mùa Thu. Đây không phải
mùa khách quốc tế Việt Nam đông, do vây cần có chương trình du lịch với các
nội dung phù hợp với đại đa số khách nội địa và số khách là Việi kiều về thăm
quê huơng sau Tết nguyên đán, đổng thời phải tổ chức xây đựng các lễ hội du
lịch vào mùa thu đông khi khách quốc tế đến Việt Nam đông để phục vụ thị
trường khách tiềm năng quan trọng đăc biệt này.
Du lịch lễ hội thường diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định
nên người tổ chức du lich phải nắm chắc thời gian và khồng gian của lễ hội cùng
với các nội dung hoạt động của lễ hội đó để khai thác đúng hướng, có hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức du lịch lễ hội, các điều kiện phục vụ về lưu trú,
vận chuyển, ăn uống sẽ bị tác động mạnh dọ sự chênh lệch giữa cung và cầu nên
cần có biện pháp chuẩnbị từ trước. Có các biện pháp đồng bộ, trên cơ sở xây
dựng các phương án dự phòng đối phó với các tình huống thiên tai, (dịch bệnh,
khủng bố, đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối cho du khách trong khi đi du lịch
lễ hội. v.v… Phải nắm chắc các nội dung hoạt động trong lễ hội sắp đến, chuẩn
bị các điều kiện cụ thể cho du khách có thể tham gia trực tiếp các hoạt động của
lễ hội như các trò chơi diễn ra trong lễ hội.Khi đi du lịch lễ hội, do số lượng
người khá đông, lễ hội lại chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định tập trung
trong một không gian hẹp nên thường dẫn đến việc thất lạc du khách, hoặc bố trí
xắp xếp chương trình không đúng thời gian, kế hoạch dự kiến, từ đó cần phải có
biện pháp quản lý khách phù hợp.
Hiện nay một số công ty du lịch mới chỉ dừng lại ở việc kinh doanh du
lịch lễ hội bằng hình thức kinh doanh vận chuyển khách du lịch thông qua hình
thức cho thuê xe mà chưa khai thác các giá trị nhiều mặt của hiện tượng văn hóa
đặc sắc này vào trong kinh doanh du lịch. Với loại hình du lịch lễ hội, hiện nay
lượng khách chủ yếu là khách nội địa, do vậy cần chú ý hơn trong công tác
quảng bá, tiếp thị với thị trường khách quốc tế.Nguồn khách của du lịch lễ hội
Việt Nam hiện nay chủ yếu là khách nội địa, trong quá trình phái triển, người
dân Việt Nam ngày càng có điều kiện về thời gian, kinh tế, nhu cầu vui chơi giải
trí cũng không ngừng nâng cao… Đây là đối tượng khách quan trọng mà du lịch
Việt Nam cần quan tâm và có chiến lược kinh doanh phù hợp, hiệu quả. Bên
cạnh đó, cần có một “chiến lược dài hơi” trong tổ chức kinh doanh du lịch nhằm
vằo đối tượng khách quốc tế, một đối tượng quan trọng, không thể thiếu của du
lịch Việt Nam.
1.3. Vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa con người và đối với du lịch.
1.3.1. Vai trò của lễ hội với đời sống văn hóa.
Lễ hội cổ truyền Việt Nam là sản phẩm của cư dân nông nghiệp lúa nước,
vì vậy nó có ý nghĩa to lớn về tinh thần và vật chất trong cộng đồng. Lễ hội chứa
đựng những giá trị to lớn về liên kết cộng đồng. Ở giá trị này qua lễ hội con
người được gần gũi, hiểu biết và quý mến nhau. Thông qua đó cộng đồng làng
xã được khẳng định một cách vững chắc. Mối quan hệ làng xã được nâng lên
sau mỗi dịp hội làng, sự hiểu biết giữa các dân tộc được tăng lên, sự chia sẻ
củng cố giữa các thành viên trong làng xã, các địa phương ngày càng được củng
cố và phát triển.
Lễ hội còn là dịp tưởng nhớ đến các vị anh hùng có công với đất nước,
giúp cho thế hệ sau hiểu về truyền thống đấu tranh hào hùng của dân tộc, yêu
mến quê hương đất nước và thêm kính trọng các bậc cha ông, tổ tiên xưa.
Ngày hội là dịp biểu thị sức mạnh cộng đồng, cũng là dịp thể hiện các mối
quan hệ, ứng xử, giao tiếp ở cả ba chiều: cá nhân – cá nhân, cá nhân – cộng đồng,
cộng đồng – cá nhân.
Với cộng đồng đây là cơ hội thuận tiện để biểu dương và chứng minh uy
lực của mình. Với cá nhân đây là dịp “cái tôi vô danh” hòa nhập vào “cái ta
chung”. Mỗi thành viên bày tỏ thái độ của mình hưởng ứng và tham dự ở các
mức độ tình cảm và thái độ với cộng đồng mình sống và gắn bó.
Ngày nay khi đời sống vật chất ngày càng phát triển, thêm vào đó con
người luôn phải sống trong khuôn phép, không được thả lỏng, đời sống tinh
thần bị hạn chế vì thế họ đã tìm đến lễ hội để cân bằng đời sống tâm linh, tình
cảm, hòa đồng với tình yêu con người. Do đó những nỗi niềm băn khoăn, những
nguyện vọng về đời sống hiện tại và tương lai, cũng như sinh hoạt đời thường
được thể hiện một cách sinh động và cô đúc dưới dạng biểu tượng trực tiếp nghệ
thuật hay nghi lễ, trang nghiêm hay trần tục trong các lễ thức trò chơi hay trò
diễn cùng các cuộc đua tài.
1.3.2. Vai trò của lễ hội với du lịch.
Trong Điều 79, Luật Du lịch đã xác định rõ nhà nước tổ chức hoạt động
hướng dẫn du lịch, xúc tiến du lịch với các nội dung tuyên truyền giao tiếp rộng
rãi về đất nước, con người Việt Nam danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử… có lễ
hội sẽ làm cho du lịch phát triển hơn, lễ hội làm cho du lịch trở nên hấp dẫn tạo
cho số lượng khách đông hơn. Lễ hội luôn tác động đến du lịch và làm cho du
lịchngày càng phát triển. Có người cho rằng lễ hội và du lịch luôn có sựtác động
qua lại với nhau và cùng nhau phát triển. Du khách đến lễ hội đông kéo theo
những nhu cầu khác nhau, khi đó những mặt hàng ngành du lịch tăng lên như
những dịch vụ du lịch được tăng lên cao về kinh tế, lễ hội làm cho bản sắc văn
hoá vùng miền thêm hấp dẫn thu hút khách du lịch làm cho du lịch tăng lên về
lượng khách lớn hàng năm.
Bản chất của du lịch Việt Nam là du lịch văn hoá, du lịch Việt Nam muốn
phát triển tất yếu phải khai thác sử dụng giá trị văn hoá truyền thống, cách tân và
hiện đại hoá sao cho phù hợp hiệu quả trong đó có kho tàng lễ hội truyền thống.
Đây là một thành tố đặc sắc văn hoá Việt Nam cho nên phát triển du lịch lễ hội
chính là lễ hội sử dụng ưu thế của du lịch Việt Nam trong việc thu hút và phục
vụ khách du lịch. Mùa lễ hội cũng là mùa du lịch tạo nên hình thức du lịch lễ hội
mang bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua các sắc thái văn hoá các địa
phương, vùng miền phong phú đặc sắc. Lễ hội tác động đến du lịch, làm cho du
lịch tăng lượng khách lên cao, tăng doanh thu và mang hiệu quả kinh tế cao.
Lễ hội và du lịch luôn luôn có sự tác động qua lại với nhau và cùng nhau
phát triển làm hoàn thiện hơn ngành du lịch, tuy vậy du lịch vẫn có sự tác động
đối với lễ hội như sau: Du lịch có những đặc trưng riêng làm cải biến hay làm
hấp dẫn hơn lễ hội truyền thống, lễ hội truyền thống có những tính mở thì vẫn có
những hạn chế nhất định về điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội cổ truyền vốn chỉ
phù hợp với khuôn mẫu và không gian bản địa. Nay du lich có tác động lớn với
lễ hội, du lịch mang tính liên ngành liên vùng, du lịch mang đến nguồn lợi kinh
tế cao cho các địa phương có lễ hội, du lịch tạo việc làm cho người dân địa
phương thông qua dịch vụnhư sau: vận chuyển khách, bán hàng hoá, đồ lưu
niệm… Nhân dân vùng có lễ hội vừa quảng bá hình ảnh văn hoá về đời sống
mọi mặt của địa phương mình, vừa có dịp giao lưu, học hỏi tinh hoa văn hoá
đem đến từ du khách. Sự tác động hay mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch thì làm
cho ngành du lịch ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, ở đây lễ hội và du lịch có
sự tác động qua lại hỗ trợ nhau làm cho du lịch lễ hội ngày càng hấp dẫn hơn,
thu hút được một số khách tham gia ngày càng đông hơn. Du lịch có tác động
tích cực đến với lễ hội nhưng cũng có những mặt tiêu cực mà chúng ta là những
người trong ngành du lịch cần đưa ra để nghiên cứu và tìm cách khắc phục.
Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực của du
lịch đối với lễ hội và ngược lại. Với thời gian và không gian hữu hạn của các lễ
hội truyền thống vốn chỉ phù hợp với điều kiện riêng của các địa phương, thực
tế, khi khách du lịch tới đông sẽ ảnh hưởng thay đổi đôi khi đảo lộn các hoạt
động bình thường của địa phương nơi có lễ hội, du khách với nhiều thành phần
lại là những người có điều kiện nhu cầu khác nhau. Hoạt động của họ có thể tác
động không nhỏ tới tình hình trật tự an toàn xã hội của địa phương nơi có lễ hội,
còn gây nhiều lộn xộn trong lễ hội.
1.4. Tác động qua lại giữa lễ hội và du lịch.
1.4.1. Tác động tích cực của lễ hội và du lịch.
Việt Nam xác định Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng,
mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao
phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân
và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước. Ngay trong pháp lệnh này đã thể hiện rõ nội dung
cơ bản, bản chất của du lịch Việt Nam là du lịch văn hóa. Du lịch Việt Nam
muốn phát triển, tất yếu phải khai thác và sử dụng các giá trị văn hóa truyền
thống, cách tân và hiện đại hóa sao cho phù hợp, hiệu quả trong đó có kho tàng
lễ hội truyền thống. Đây là một thành tố đặc sắc của văn hóa Việt Nam, cho nên
phát triển du lịch lễ hội chính là sử dụng lợi thế, ưu thế của Du lịch Việt Nam
trong việc thu hút và phục vụ khách du lịch.Khác với một số ngành kinh tế ở
Việt Nam, kinh tế du lịch là ngành kinh tế phải dựa trước hết và xuyên suốt trên
nền tảng văn hóa dân tộc. Trong giai đoạn đầu của ngành du lịch Việt Nam,
cùng với các thành tố văn hóa – xã hội khác, lễ hội truyền thống Việt Nam chính
là một loại tài nguyên văn hóa, đồng thời là một sản phẩm du lịch sáng giá, có
ưu thế nổi trội trong quá trình cạnh tranh quốc tế của ngành du lịch Việt Nam
hiện nay. Dân gian Việt Nam xưa có câu:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc – Tháng ba hội hè.
Loại bỏ những yếu tố tiêu cực của xã hội cũ, đặt vào trong điều kiện mới
hôm nay, mùa lễ hội cũng là mùa du lịch, tạo nên hình thức du lịch lễ hội mang
bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua sắc thái văn hóa của các địa phương,
vùng miền phong phú, đặc sắc. “Trong thời đại hiện nay và cả sau này này, mỗi
dân tộc cần trở về nguồn, cần hiểu rõ mình, cần giữ gìn và phát triển văn hóa của
mình. Các nhà nghiên cứu và những người yêu thích văn hóa của mỗi nước đến
tham quan nghiên cứu và thưởng thức vốn văn hóa vốn có từ nguyên thủy của
nước ta. Việc đi thăm nhau một cách bổ ích và lý thú như thế được coi là những
cuộc du lịch.Do đó được nhiều đối tượng khách khác nhau đến từ trong và ngoài
nước, du lịch lễ hội đã góp phần phổ biến rộng rãi văn hóa của các địa phương
tới mọi miền đất nước, truyền bá văn hóa dân tộc ra thế giới, quảng bá hình ảnh
Việt Nam trên trường quốc tế và bạn bè thế giới.
Du lịch lễ hội góp phần tạo ra sự giao thoa và đan xen văn hóa, làm giàu
kho tàng văn hóa truyền thống của cha ông. Lễ hội làm phong phú, đa dạng và
hấp dẫn các chương trình du lịch văn hóa, thu hút đông đảo nhiều đối tượng
khách du lịch đến với các công ty du lịch, tăng doanh thu cho các công ty đó.
Tính quần thể và mùa vụ của lễ hội và du lịch đã gặp nhau trong cùng thời gian
và không gian, chúng sẽ tác động tương hỗ, bổ sung, hoàn thiện và tôn vinh cho
nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển, vươn lên đạt được những thành tựu mới.
Đến với lễ hội, du khách được hòa mình vào trong không gian văn hóa
đặc sắc, cô đọng của các địa phương, được đắm mình trong tình cảm cộng đồng
sâu sắc, cảm nhận các giá trị văn hóa của mỗi địa phương được chung đúc và
kiểm nghiệm qua thời gian. Đồng thời khách du lịch cũng sẽ trở thành đối tượng
làm thay đổi một phần diện mạo của lễ hội, tăng tính thu hút, hấp dẫn của lễ hội,
góp phần xóa đi sự nhàm chán, đơn điệu của lễ hội các địa phương. Đưa du
khách đến tham dự lễ hội cũng là quá trình đưa họ đến với tính thiêng liêng
trong đời sống tâm linh của mỗi người dân, mỗi đu khách, vì đó là một nhu cầu
không thể thiếu của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ du khách, đặc biệt là
khách nội địa.
Du lịch đem đến cho các địa phương có một nguổn lợi kinh tế, tạo công
ăn việc làm cho người dân địa phương từ các hoạt động dịch vụ như vận chuyển
khách,trông giữ xe, bán hàng hóa – đồ lưu niệm, các dịch vụ lưu trú, dịch vụ
phục vụ ăn uống – giải khát… Nhân dân vùng có lễ hội vừa quảng bá hình ảnh về
văn hóa, về đời sống mọi mặt của địa phương mình, vừa có dịp để giao lưu, học
hỏi các tinh hoa văn hóa đem đến từ phía du khách. Điều này góp phần xóa đi sự
“khu biệt văn hóa” một cách tương đối vốn có trong đời sống của cư dân các địa
phương, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
vốn chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Từng bước tạo điều kiện cho
các địa phương phát huy nội lực, khai thác giá trị nội tại của địa phương tham
gia từng bước vào quá trình hội nhập vào giao lưu trong nuớc và quốc tế. Thông
qua những hoạt động nội tại của mình, lễ hội được hoạt động du lịch (với các
đối tượng khách đa dạng) kiểm chứng, thẩm định… Từ đó các lễ hội (nói đúng
hơn, những người lổ chức lễ hội) rút ra các bài học cho mình, để rổi tự đổi mới
cho phù hợp với điều kiện mới.
Hiện nay, khi đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội đang biến đổi
mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn. Nhiều hình thái văn hóa xã hội đã
được ra đời, bổ sung, từng bước hoàn thiện trong những điều kiện mới. Các lễ
hội du lịch, liên hoan du lịch được mở ra trên nền tảng lễ hội dân gian truyền
thống nói riêng và kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc nói chung. Lễ hội du lịch
trở thành một hoạt động văn hóa tổng hợp, một công cụ văn hóa đa năng mang
nặng yếu tố kinh tế, đồng thời đây là sự sáng tạo của lịch sử trong thời cơ và
điều kiện nhất định. Trong lễ hội du lịch, các giá trị đặc sắc của văn hóa được
gắn kết, tạo ra một sắc thái mới trong đời sống văn hóa xã hội. Mối quan hệ giữa
các cá nhân, các tổ chức, các loại hình hoạt động trong một không gian và thời
gian nhất định được diễn ra đa chiều, không còn đơn tuyến, nhỏ lẻ. Sức mạnh
tổng hợp của các loại hình văn hóa được chung đúc tạo ra một sắc thái và động
lực mới, mở ra những chân trời mới với vận hội thế lực mới.
1.4.2. Tác động tiêu cực của lễ hội đến du lịch.
Với thời gian và không gian hữu hạn của các lễ hội truyền thống vốn chỉ
phù hợp với điều kiện riêng của các địa phương. Thực tế, khi khách du lịch tới
đông sẽ làm ảnh hưởng, thay đổi, đôi khi đảo lộn các hoạt động bình thường của
địa phương nơi có lễ hội. Du khách với nhiều thành phần, lại là những người có
điều kiện, nhu cầu khác nhau, hoạt động của họ có thể tác động không nhỏ đến
tình hình trật tự an toàn xã hội của địa phương nơi có lễ hội. Nếu không tổ chức,
điều hành, quản lý lễ hội chu đáo sẽ dẫn đến sự lộn xộn trong quản lý, điều hành
xã hội.Hoạt động du lịch với những đặc thù riêng có của nó dễ làm biến đạng
các lễ hội truyền thống. Vì lễ hội truyền thống dù có đặc tính mở thì vẫn có
những hạn chế nhất định vềđiều kiện kinh tế, văn hóa xã hội cổ truyền, vốn chỉ
phù hợp vói một khuân mẫu và không gian bản địa. Nay khi hoạt động du lịch
mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao., sẽ dễ làm mất sự cân bằng,
dẫn tới sự phá vỡ các khuân mẫu truyền thống của địa phương trong quá trình
diễn ra lễ hội.
Hiện tượng thương mại hóa các hoạt động lễ hội, lừa đảo, bắt chẹt khách
để thu lợi tạo hình ảnh xấu, gây tâm lý ức chế cho du khách, làm giảm lượng
khách đến lễ hội lần sau. Du khách đến lễ hội đông kéo theo những nhu cầu
khác nhau, tạo ra sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu, dễ dẫn đến tình trạng
ô nhiễm môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn. Bản sắc
văn hóa vùng miền có nguy cơ bị “mờ” do kết quả của sự giao thoa văn hóa
thiếu lành mạnh không thể tránh khỏi đem đến từ phía một bộ phận du khách.
Có hai khuynh hướng cần tránh: đó là khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng
cấp tiến một cách thái quá trong quá trình tổ chức, điều hành, duy trì các hoạt
động lễ hội. Nếu không, sẽ dễ dẫn đến hiện tượng nệ cổ, phục cổ hoặc sự lai
căng, pha lạp, trong cách nhìn, cách hiểu, cách ứng xử lệch lạc đối với văn hóa
đân tộc ở các địa phương.
Do đặc thù của du lịch lễ hội khiến những nhà tổ chức, quản lý lễ hội
không dễ điều phối, kiểm soát các đối tượng khách khác nhau. Một số đối tượng
xấu lợi dụng lúc đông người, trà trộn, chen lấn trong đám đổng để móc túi, lừa
đảo khách du lịch. Những hiện tượng đó ít nhiều gây phiền toái cho người tổ
chức, thực hiện chương trình du lịch, làm ảnh hưởng đến lễ hội, làm xấu đi hình
ảnh của địa phương trong con mắt của du khách. Nếu không được tổ chức, quản
lý điều hành chặt chẽ các lễ hội sẽ chỉ đón được tình trạng các đối tượng khách
“một lần đến, một lần đi, không một lần trở lại”. Điều này đặt ra cho các nhà tổ
chức lễ hội, các nhà khai thác lễ hội phải phối hợp hành động chặt chẽ trong mọi
hoạt động của mình.
Tiểu kết chương 1.
Như vậy qua những phần trình bày ở trương một tác giả đã nêu ra được
những định nghĩa về lễ hội và mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch. Qua đó chúng
ta hiểu sâu hơn về các khái niệm lễ hội để thấy được tầm quan trọng của lễ hội
đối với cuộc sống người dân cũng như du lịch.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC LỄ HỘI ĐỀN TRẦN, THÁI
BÌNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH.
2.1. Khái quát về Đền Trần, Thái Bình.
2.1.1. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành Đền Trần.
Vị trí địa lý.
Đền Trần (Hưng Hà – Thái Bình) cách Hà Nội 80km về hướng Đông Nam
thuộc địa bàn xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nếu đi từ Hà Nội
theo hướng Đông Nam con đường quốc lộ 39A nối đường 5 từ phố Nối về Hưng
Yên qua cầu Triều Dương là đến địa phận tỉnh Thái Bình. Du khách đi tiếp 5 km
đến thị trấn Phú Sơn, lại đi thêm 2km là đến ngã ba Cầu Lê. Từ đó rẽ phải 1km,
du khách sẽ đến vùng đất làng Tam Đường. Hoặc từ trung tâm thành phố Thái
Bình theo đường 39A ngược đi Triều Dương đến km số 36, rẽ trái khoảng 1km
du khách sẽ đến vùng đất làng Tam Đường, Phú Đường và Ngọc Đường xưa,
nay là thôn Tam Đường, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà.
Tam Đường là một trong 8 thôn (làng) nằm ở trung tâm xã Tiến Đức ngày
nay. Nó được hợp nhất ba làng Thái, Phú, Ngọc Đường khoảng sau năm 1924.
Tam Đường có diện tích tự nhiên là 90ha, thổ canh là 70ha, thổ cư là 14ha. Phía
Tây giáp sông Hồng, phía Đông giáp sông Thái Sư, phía Nam giáp xã Hồng An,
phía Bắc giáp thôn Đặng xã Phú Sơn. Địa hình gồm nhiều gò đống, có độ cao
thấp khác nhau. Đây là địa bàn thuận lợi cho quá trình định cư của cư dân Việt
cổ theo các sông lớn đi khai phá chinh phục những vùng đầm lầy và thuận lợi
cho việc đánh bắt cá.
Có thể nói vùng đất Tam Đường, phủ Long Hưng nay là vùng đất Hưng
Hà không phải là quê hương đầu tiên của họ Trần. Theo sử cũ ghi lại thì tổ tiên
của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc từ dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh
Phúc Kiến, Trung Hoa. Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào
khoảng năm 1110 thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Lúc đầu cư trú tại xã An
Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay, sống bằng nghề chài lưới
trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện
Thiên Trường, Nam Định. Đến đời Trần Hấp dời mộ tổ sang sinh sống tại Tam
Đường phủ Long Hưng nay là vùng đất thuộc Thái Bình.
Lịch sử hình thành và phát triển.
Văn hóa dân gian đã ghi nhận câu chuyện đượm màu thần bí. Đó là câu
chuyện: chọn đất đặt mộ tổ của họ Trần. Chuyện kể rằng:
Ông tổ họ Trần đến từ hương Tức Mặc (Nam Định ngày nay) rất thạo
sông nước, sống bằng nghề chài lưới, lênh đênh trên sông Nhị Hà; chỗ nào cũng
là nhà, lấy người con gái ở hương ấy sinh ra Trần Hấp. Vào thời Lý Thần Tông
(1128-1138), có một thầy địa lý đi xem tướng đất, thấy ở hương Tinh Cương xã
Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng có một gò Hoả tinh, Thầy cười
mà nói rằng:
Ở giữa nơi bằng phẳng lại nổi lên một gò lớn, hẳn không phải là hoang
địa, rồi thầy vào làng Tây Nha gặp một người họ Nguyễn, xin đặt đất táng mộ.
Xong việc thì những người họ Nguyễn này đem lòng bội bạc trói thầy địa lý
quẳng xuống sông. May thay gặp lúc thủy triều xuống nên thầy không chết. Lúc
đó Trần Hấp đánh cá thấy người kêu cứu liền cởi trói và hỏi duyên cớ. Thầy địa
lý đem chuyện bị hãm hại và bày tỏ rằng: Tôi đội ơn người đã cứu tôi thoát nạn,
xin tìm nơi cát địa để báo ơn.
Theo sự chỉ dẫn của thầy, giờ lành ngày Tân Dậu, tháng Đinh Tỵ năm
Quý Sửu Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc (Nam Định ngày nay) về đặt tại gò
hỏa tinh, tiền của tốn phí hơn nghìn hốt. Mộ đặt tại hướng Càn (Bắc) nhìn ra ngã
ba sông lớn, tục gọi là cửa Vàng. Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữu la liệt
cờ trống. Thế đất đặt mộ cha Trần Hấp, theo thầy địa lý là “phấn đại đương giao
chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ đắc thiên hạ” (nghĩa là phấn son cùng
chiếu rọi, trước mặt nở hoa sen, sau này có người do nhan sắc mà lấy được thiên
hạ), lại nói “nữ nhập cung phi, nam cư phụ chính”.
Sau này do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là sự sắp đặt khéo léo của Trần
Thủ Độ đã để Lý Chiêu Hoàng (công chúa nhà Lý) nhường ngôi cho Trần Cảnh.
Từ đây gia tộc nhà Trần đã mở ra một trang mới. Nước Đại Việt thời trị vì của
các vua Trần đã trở nên nổi tiếng không chỉ trong khu vực mà ra cả thế giới. Một
triều đại có công lao rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà khó
có một triều đại nào trong lịch sử dân tộc Việt Nam sánh bằng. Trải qua 175
năm trị vì, gia tộc nhà Trần đã sản sinh ra những vị anh hùng kiệt xuất. Đó là
thái sư Trần Thủ Độ, linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Hưng đạo vương Trần
Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải…những vị vua tài ba, anh minh,
lỗi lạc như vua Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông…Có thể nói vương triều nhà
Trần đã tạo nên một thương hiệu mà bất cứ một triều đại nào trong lịch sử Việt
Nam cũng đều nể phục.
Các vị vua Trần đã chọn Long Hưng làm nơi dựng lăng miếu vì nơi đây
không những là nơi đặt mộ tổ- đất phát tích của dòng họ, mặt khác còn vì Long
Hưng có một vị trí thuận lợi cho giao thông, phát triển kinh tế cũng như quân sự.
Long hưng là bãi bồi mới được bồi đắp do phù sa từ các sông lớn nhất là sông
Hồng tạo nên. Do đó đất đai có nhiều màu mỡ, sản xuất nông nghiệp thuận lợi
phát triển, là nơi sông lạch nhiều thuận lợi cho nghề sông nước, cho giao thông
vận tả, cho sản xuất nông nghiệp.
Do nhiều lý do mà trước đây khu di tích này đã bị hủy hoại. Song cũng
từng được tu tạo và duy trì trong các triều đại sau đó. Thư tịch cổ đều ghi chép
về di tích này. Sách Đồng Khánh Dư Địa Chí ghi chếp gần đây nhất và đầy đủ
nhất về cổ tích các ở các địa phương trong đó có ở đất Long Hưng. Tại vị trí
làng Thái Đường, sách vẽ một ngôi đền và ghi là “ Trần đế miếu” nghĩa là miếu
của các vua Trần. Năm 2000 khu di tích đền Trần ở Tam Đường đã được Uỷ
Ban Nhân Dân tỉnh khởi công tái tạo lại rất hoành tráng.
Đặc biệt sau khi có các cuộc hội thảo và khia quật khảo cổ học chứng
minh rằng Tam Đường là nơi phát tích của nhà Trần khu di tích này đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm từ các cấp nhằm tái tao, tôn tạo để xứng đáng với vị
thế mới của nó. Năm 1990, khu di tích đã được bộ Văn Hóa, thể thao và Du
Lịch công nhậ là khu di tích khảo cổ học và di tích lịch sử cấp quốc gia.
2.1.2. Các giá trị của Đền Trần, Thái Bình.
Giá trị tâm linh, tín ngưỡng.
Vào thời nhà Trần, các vua Trần dấy nghiệp từ đất Long Hưng, chọn
Long Hưng là căn cứ địa, hậu phương lớn, cung cấp sức người, sức của trong ba
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Các vua Trần rất quý trọng nhân
dân Long Hưng, ngược lại, nhân dân Long Hưng cũng làm hết nghĩa vụ của
những thần dân, người cùng quê hương với nhà Trần trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Vua Trần đã tin cậy người dân Long Hưng như dòng tộc của
mình. Để thể hiện lòng biết ơn, tình cảm của nhà Trần với nhân dân Long Hưng
mỗi lần chiên thắng quân Mông Nguyên vua Trần thường về tế tôn miếu ở Long
Hưng.
Năm tháng trôi qua, người dân Tam Đường ngày nay tiếp tục tôn tạo, tu
sửa khu tôn miếu năng mộ của các vị vua đầu triều Trần, thông qua những tín
ngưỡng thờ cúng linh thiêng dành cho người anh hùng của dân tộc, tiếp nối
truyền thống của cha ông đi trước.
Bên cạnh đó, nhằm khẳng định giá trị di sản văn hóa nhà Trần ở Thái
Bình, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, thiết thực lập thành tích chào mừng
những ngày lễ lớn của đất nước, đặc biệt là để thu hút khách du lịch đến với tỉnh
nhà. Năm 2010 là năm đầu tiên khôi phục lại lễ hội cổ truyền này. Trong đó tâm
điểm là lễ khai ấn đền Trần, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà. Theo dân gian truyền
tụng, sau khi chiến thắng quân nguyên lần thứ nhất, vào ngày 14 tháng Giêng,
vua Trần đã mở tiệc chiêu đãi ở phủ Thiên Trường và phong chức cho các quan,
quân có công. Kể từ đó, cứ vào ngày này đúng giờ Tý(23 giờ) các vua Trần lại
khai ấn đánh dấu việc trở lại quốc sự của vua quan sau khi nghỉ Tết. Việc khai
ấn cũng chính là công bố ngày làm việc của năm mới.
Lễ khai ấn đền Trần được tổ chức bắt đầu từ 23h00 ngày 13/1 âm lịch.
Sáng ngày 14 sau phần lễ khai mạc và lễ dâng hương với sự góp mặt của các cấp
lãnh đạo cùng nhân dân du khách thập phương và người dân trong xã, là phần
biểu diễn màn sử thi “ Âm vang hào khí Đông A” do hơn 800 diễn viên chuyên
nghiệp và không chuyên biểu diễn màn sử thi gây được ấn tượng mạnh cho hàng
vạn người tới dự lễ hội.
Buổi chiều cả ngày 14 và cả ngày 15 là các hoạt động như: thi kéo co, thi
đấu cờ người, thi chọi gà và đặc biệt có phần thi cỗ cá.
Chiều ngày 15 tháng tổ chức diễn xướng chầu văn của các huyện với gần
20 bài hát văn, hát ca trù lời cũ hoặc lời mới soạn đã thu hút đông đảo nhân dân
tới tham dự. Đây thực sự là buổi diễn nghệ thuật mang lại hiệu quả cao được
nhân dân đánh giá tốt và khen ngợi.
Từ đó có thể thấy rằng, quần thể di tích này là nơi để các tầng lớp nhân
dân bày tỏ và thể hiện một phần thiêng liêng và sâu kín nhất trong tâm tư tình
cảm, nguyện vọng của mình cầu mong một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự tồn tại của
quần thể di tích này gắn liền với sự tồn tại của tỉnh thiêng nhằm thỏa mãn nhu
cầu tinh thần của một bộ phận các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin tưởng hy
vọng ở tương lai tốt đẹp, đồng thời góp phần và khơi dậy và củng cố tính thiện
trong mỗi con người. Tất cả những điều này thể hiện trong những nghi lễ với
một thái độ thành kính trân trọng dành cho những đối tượng được thờ cúng.
Giá trị kiến trúc.
Ngôi đền” có kết cấu chữ nhất không có hậu cung, 7 gian, mái chảy, hồi
văn 5 đấu, vì kèo chồng đấu hoa sen”. Tuy nhiên, nhận thấy công trình ấy chưa
tương xứng với lịch sử hào hùng cũng như rất nhiều sự kiện lịch sử quan trọng
mà triều đại nhà Trần đã để lại trên mảnh đất này, từ năm 2000 Ủy ban nhân dân
tỉnh Thái Bình và huyện Hưng Hà đã tiến hành đầu tư quy hoạch, tu bổ, tôn tạo
di tích đền thờ và lăng mộ các vua Trần trên diện tích 5.175m2 và đến năm 2005
về cơ bản đã hoàn thành. Trong các năm sau đó, từ năm 2005 đến năm 2010 tiếp