11212_Tiểu luận Biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề xa hơn về tụt hậu kinh tế

luận văn tốt nghiệp

TIỂU LUẬN:

Biện pháp phòng chống về tham nhũng
và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế

A. Lời nói đầu

Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Việc mở cửa hội nhập về
kinh tế – xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới. nhưng ngoài những mặt tích
cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại ở đây những nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham
nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc
gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng và tụt hậu
xa hưn về kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát
triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một nguy cơ làm tàn
hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài người. Nó xảy ra ở những quốc gia và
khu vực rất khác biệt về hệ tư tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội.
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải và là bài toán khó
cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình bắt kịp với đà phát triển của nền kinh
tế thế giới. Từ những năm 1975, nước ta đi theo con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng
nhìn thấy mặt tiêu cực của nó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo kinh tế
thị trường và có những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp được với đà phát triển của thế
giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt
hậu xa hơn về kinh tế đã trở thành vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế
giới hiện nay.

B. Nội dung
Chương I: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế

1.1. Nguyên nhân ra đời và sự gia tăng của nạn tham nhũng
1.1.1. Tham nhũng
1.1.1.1. Khái niệm về tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế – xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự
ra dời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia
không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hoá nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó len
lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết dân cư. Tham nhũng
là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự phát triển đi lên của xã hội. Và có thể dẫn đến sự sụp đổ của
cả một thể chế. Và nhìn từ góc độ pháp luật: Điều 1, pháp lệnh chống tham nhũng quy
định “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền
hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố làm trái ý với pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại
cho tài sản nhà nước và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
1.1.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng
Những năm gần đây tình hình tham nhũng ở nước ta diễn biến hết sức phức tạp.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách pháp luật để đấu tranh
kiên quyết với hiện tượng này, song tham nhũng cũng chưa có nhiều thuyên giảm. Để đấu
tranh có hiệu quả với tình trạng này, một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là
tìm được các nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng và tìm các biện pháp khắc phục, loại
trừ những nguyên nhân đó. Trước hết phải khẳng định ràng, hệ thống pháp luật và cơ chế
áp dụng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng. Hay nói cách khác tình trạng
tham nhũng ở một quốc gia tại một thời điểm xác định phản ánh mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật cũng như thực trạng áp dụng pháp luật. Từ đó ta có thể nhìn ra các nguyên
nhân sau:
– Thứ nhất: Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột
người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa

của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột
người sinh ra”.
– Thứ hai: đó là do bản chất của cơ chế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh tạo
ra.
– Thứ ba: Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng
viên và sự yếu kém của công tác quản lý, giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên của các tổ
chức Nhà nước và Đảng.
Trước đây, trong cơ chế cũ tập trung, quan liêu bao cấp đã có tham nhũng nhưng ở
phạm vi hẹp hơn và mức độ thấp hơn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng
giao lưu với bên ngoài, do tác động bởi yếu tố vật chất của cơ chế đó và do không chịu
thường xuyên rèn luyện tu dưỡng nhiều cán bộ đảng viên, công chức đã sa ngã, thoái hoá,
chạy theo lối sống chủ nghĩa cá nhân, bị lợi ích vật chất cám dỗ, sống đồi truỵ xa hoa, đã
trượt vào cùng bùn tham nhũng, tội lỗi. Trong khi đó công tác quản lý, giáo dục kiểm tra
cán bộ Đảng, cán bộ và công chức bị buông lỏng, yếu kém, không chuyển kịp trước tình
hình mới.
– Thứ tư: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự
chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.
Mặc dù nước ta đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng chúng ta chưa xây dựng
được một hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đồng bộ và hoàn chỉnh phục
vụ cho sự nghiệp đổi mới.
– Thứ năm: Sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi còn thiếu sâu
sát, chặt chẽ, chưa quyết tâm cao, cơ chế tổ chức và giải pháp phòng ngừa tham nhũng
chưa hiệu quả.
Tuy Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống, tham nhũng
nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu những giải pháp có hiệu quả, tổ chức chỉ
đạo chưa chặt chẽ.
Tóm lại, tình trạng tham nhũng phổ biến và nghiêm trọng ở nước ta xét về mặt chủ
quan là hệ quả tổng hợp của 5 nguyên nhân trên, trong đó nguyên nhân về sự suy thoái về
phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.1.3. Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng

ở vào thời điểm mở đầu của thiên niên kỷ mới, hầu hết tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển phải đối diện một cách gay gắt
với căn bệnh nan y nhức nhối, đó là nạn tham nhũng. ở nhiều nước, tham nhũng đã trở
thành quốc nạn, không chỉ gây những hiệu quả to lớn về mặt kinh tế mà còn để lại những
hậu quả xã hội nặng nề, làm băng hoại đến nền tảng đạo đức và tinh thần xã hội. Với quy
mô rộng lớn, tính chất phức tạp và nhiều tác dụng tiêu cực mang tính đa chiều của nó,
tham nhũng đang thực sự nổi lên như một đại dịch – một vấn đề mang tính toàn cầu xuyên
thế kỷ. Bởi vậy cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi những nỗ lực to lớn và kiên quyết
không chỉ trên phạm vi một quốc gia mà cả sự phối hợp trên quy mô toàn cầu. Theo đánh
giá của ngân hàng phát triển châu á (ADB), tham nhũng đang có xu hướng gia tăng tại
nhiều châu lục, ở nhiều nước số thiệt hại do tham nhũng gây ra vượt quá tổng số nợ nước
ngoài của họ. Nhiều nước Đông Nam á vốn đã phải gồng mình vật lộn với cơn bão táp
khủng hoảng tài chính – tiền tệ lại phải đương đầu với sự tàn phá không kém của tệ nạn
tham nhũng, hối lộ và rửa tiền, khiến cho công cuộc phục hưng kinh tế đang trở ngại lại
càng thêm phần gian nan.
Đối với Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta luôn khẳng định chống tham nhũng một
cách kiên quyết và triệt để. Nhằm làm trong sạch bộ máy đảng, chính quyền và đoàn thể.
Báo cáo Chính trị Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tham nhũng quan liêu là một trong những nguy cơ
không thể xem thường. Với sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng hiện nay thì cuộc đấu tranh
chống tham nhũng phải được tiếp cận như là cuộc đấu tranh loại trừ một quốc nạn nguy
hiểm. Và trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, Đảng cũng dành sự quan tâm
đặc biệt đến việc giải quyết vấn nạn này. Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN nêu rõ: “Hiện nay,
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham
nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là
một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế,
tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ TW đến cơ sở?
1.1.2. Tụt hậu xa hơn về kinh tế, mặt yếu kém của sự phát triển
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh kinh tế – chính trị thế giới đang trong quá trình cơ cấu lại một cách

sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực châu á với nền văn minh Trung Hoa đặc
sắc và có sự phát triển kinh tế năng động nhất trong thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có phát
triển vượt lên được theo con đường phương Đông, con đường Việt Nam riên của mình hay
không?
So với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển của Việt Nam đang bị chậm vài thập
kỷ, Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một trong những nước nghèo nhất thế giới
và có nguy cơ tụt hậu mạnh hơn nữa nếu không có một đường lối, chiến lược thông minh
và có một quyết tâm cao.
Đó là sự nhìn nhận với nền kinh tế Việt Nam. Còn nhìn vào sự tụt hậu xa hơn về
kinh tế giữa các nước trên thế giới. Với xu thế càng ngày càng phát triển hiện nay thì
khoảng cách giữa các nền kinh tế, các nước ngày càng được gia tăng. Song, có không ít
những thăng trầm trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Với điểm xuất phát rất cao,
các cường quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản (các nước phát triển) rất thuận lợi.
Trong quá trình phát triển kinh tế nhưng với điểm xuất phát thấp như Việt Nam, Lào,
Campuchia và một số nước châu Phi, châu Mỹ (các nước chậm và kém phát triển) thì việc
phát triển kinh tế là vấn đề rất nan giải. Trong những năm 90, thế giới đã chứng kiến sự
thay đổi lớn lao chưa từng có kể từ đầu thế kỷ đến nay. Sự kiện nổi bật nhất là sự sụp đổ
của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội Xô viết, kéo theo đó là sự sụp đổ của cả hệ thống
xã hội chủ nghĩa. Tác động của những sự kiện đó đối với nền kinh tế thế giới rất to lớn,
chúng đã, đang và sẽ diễn ra có thể cho đến nay chúng ta vẫn chưa lường trước được.
Thực vậy, trong thập kỷ 90 chiều hướng giảm sút nhịp độ tăng kinh tế toàn cầu có
thể tiếp tục. Bảng số liệu mức tăng tổng sản phẩm xã hội (% so với năm trước) sau đây cho
ta rõ chiều hướng giảm sút đó.
Nước
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
– Các nước XHCN trước đây
2,9
2,0
4,1
1,3
-2,2
-9,7
-16,8
– Các nước phát triển
2,7
3,3
4,4
3,3
2,9
1,6
1,0
– Các nước đang phát triển
2,6
2,9
3,7
4,4
3,3
3,2
3,0

Theo đánh giá của cơ qua dự báo quốc tế, trong những năm tới, mức tăng tổng thu
nhập quốc dân của hầu hết các nước phát triển đều chỉ đạt 0,1% còn ở một số nước khác là
âm còn mức tăng trưởng của các nước đang phát triển và kém phát triển còn tồi tệ hơn nữa.

Từ đó cho thấy, ngay trong những giai đoạn suy sụp nhất của nền kinh tế thế giới, nhưng
các nước phát triển vẫn giữ được mức tăng trưởng dương dù là nhỏ. Còn các nước khác là
âm. Từ đó cho thấy khoảng cách (hay tụt hậu xa hơn về kinh tế) giữa các nước trên thế
giới là không thể tránh khỏi.
1.2. Thực trạng và những vấn đề tồn tại của tham nhũng ở nước ta
1.2.1. Thực trạng của tham nhũng
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phòng, chống tham nhũng.
Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo giáo
dục cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, thực hành “cần kiệm, liêm chính”.
Người đã chỉ rõ : Tham ô lãng phí, quan liêu là giặc “nội xâm”. Trong thời kỳ xây dựng
XNXH ở miền Bắc. Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động “3 xây, 3 chống”. Bước vào công
cuộc đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu cầu tiến hành cuộc vận động làm trong
sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện
tượng tiêu cực, làm lành manh hoá các quan hệ xã hội. Bộ chính trị đã có Nghị quyết số:
04/NQ/TW (12-9-1987) để chỉ đạo cuộc vận động này. Sau đó Ban bí thư đã có chỉ thị số:
64-CT và Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số: 240/HĐBT (26-6-1990) về đấu tranh
chống tham nhũng: Đại hội VIII trong Văn kiện Đại hội ghi rõ nội dung của nhiệm vụ đấu
tranh chống tham nhũng. Tháng 2-1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã thông qua Pháp
lệnh chống tham nhũng. Tháng 2-1999 Hội nghị TW 6 (lần 2) khoá VIII đã đề ra nghị
quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đại hội Đảng IX (tháng 4-2001) đã quyết định thực
hiện nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập trung
làm tốt công tác giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tháng11-2001 Hội nghị trung ương lần
thứ 4 (khoá IX) đã ra kết luận số: 04/KL-TW về tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận của Trung
ương đã xác định chống tham nhũng lãng phí là nhiệm vụ trước mắt, đồng thời cần nhận rõ
đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt lâu dài, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện chủ trương chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, các
tổ chức, chính quyền đoàn thể TW – địa phương đã bền bỉ, tích cực đấu tranh và đạt được
một số kết quả như: Đã phát hiện và xử lý được nhiệm vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm

khắc những kẻ đục khoét tài sản của Nhà nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà
nước và trả lại cho dân một giá trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn thiện nhiều cơ chế
chính sách quản lý có tác dụng hạn chế một phần tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng.
Những việc đó đã góp phần vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy
Nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị xã hội đất nước. Mặc dù có những cố gắng quyết tâm
nhưng cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đạt kết quả còn thấp, hiệu quả rất hạn
chế. Có nhiều lĩnh vực và thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra
rộng khắp trong bộ máy nhà nước, ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với
quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã có nhiều doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn
tham ô, ăn cắp của công, cố ý làm trái vì động cơ vụ lợi cá nhân, báo cáo sai sự thật để
thanh quyết toán khống, bòn rút công quỹ trong các lĩnh vực để làm giàu bất chính, lạm
dụng chức quyền để nhũng nhiễu… đã lan rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo
dục, y tế, thương binh xã hội. Tham nhũng đã xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo vệ,
pháp luật, là những công cụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và giữ gìn an ninh
trật tự, xã hội.
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao tham nhũng lại diễn ra phổ biến và nghiêm trọng
như vậy? Mặc dù Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết, đã tiến hành
nhiều cuộc vận động lớn, đã chỉ đạo xử lý nhiều vụ rất nghiêm khắc, mặc dù bị cả xã hội
lên án, ai ai cũng căm ghét phẫn nộ, nhưng tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, ngăn chặn,
thậm chí còn phát triển hơn, nghiêm trọng hơn.
Trước câu hỏi này đặt ra rất nhiều vấn đề như cơ chế chính sách chưa hoàn thiện,
còn sơ hở, về đời sống khó khăn, lương thấp, có người cho rằng vì phẩm chất đạo đức suy
thoái, công tác giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên kém, người thì cho rằng các nhà lãnh
đạo không gương mẫu, chưa chống đều khắp từ trên xuống dưới, công tác điều tra còn bị
coi nhẹ, kém hiệu quả, việc xử lý các vụ tham nhũng chưa nghiệm… Theo báo cáo của
Chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và xử lý trên 500 vụ tham nhũng với
tổng số tài sản thiệt hại trên 1,2 tỷ đồng và 34 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 ta đã phát
hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của Chánh án Toà án Nhân
dân tối cao trước Quốc hội, từ năm 1992 – 1997 toà án xét xử 3621 vụ tham nhũng với
6315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên bị tuyên phạt tử hình. Và đến nay

vẫn liên tiếp xảy ra các vụ án lớn nghiêm trọng gây thiệt hại lớn đến tiền của của Nhà nước
và nhân dân, gây mất ổn định về kinh tế xã hội. Tiêu biểu như việc phát hiện thu hồi về
cho Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, hàng chục ngàn héc ta đất, cùng nhiều tài sản có giá trị
khác, xử lý hàng chục nghìn cán bộ sai phạm, công chức sai phạm như EPCO – Minh
Phụng; Tân Trường Sanh; Nhà máy dệt Nam Định. Gần đây tiếp tục làm rõ các vụ án lớn
như: Công ty thương mại Đồng Tháp; Công ty lương thực an Giang; Công ty dược xuất
nhập khẩu Cà Mau, vụ Năm Cam… cũng đã có tác dụng phòng ngừa, răn đe giáo dục mọi
người trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
1.2.2. Những vấn đề tồn tại
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, quan liêu tham nhũng là những hiện tượng xã
hội gắn liền với sự hình thành xã hội có giai cáp và sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà
nước… Chúng là những căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi nhà nước, là khuyết tật
bẩm sinh của quyền lực, là biểu hiện của sự tha hoá “quyền lực nhà nước”, tệ nạn tham
nhũng, quan liêu diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị xã hội,
không kể quốc gia đó giàu nghèo, ở trình độ phát triển thấp hay cao. Chúng len lỏi vào mọi
mặt của đời sống xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, làm xói mòn
đạo đức, phẩm chất con người, gây ra sự cản trở đi lên và phát triển của xã hội. Tuy nhiên,
hình thức, tính chất và mức độ quan liêu, tham nhũng không mang tính cố định, bất biến
mà thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế chính trị xã hội và trình độ dân trí, khả năng
quản lý xã hội của Nhà nước.
Với việc tham nhũng ngày càng gia tăng, và có quy mô ngày càng lớn như hiện nay.
Và với các biện pháp phòng ngừa đang dần dần có hiệu quả. Nếu như những yếu tố của
các chiến dịch chống tham nhũng thành công cho đến nay đã được hiểu tương đối đầy đủ,
thì việc thực hiện và duy trì chúng lại cực kỳ khó khăn. Bất kỳ yếu tố nào cũng đều có thể
góp phần đưa chúng đến chỗ thất bại. Hơn nữa, những nơi mà tham nhũng hoành hành và
ăn sâu vào toàn bộ bộ máy chính phủ, thì các cơ hội để bắt đầu cải cách sẽ rất hiếm hoi và
hàng loạt cản trở sẽ xuất hiện.
Thêm vào đó, áp lực cải cách bắt nguồn từ những đẳng cấp thấp hơn trong bộ máy
quan liêu có thể bị cản trở do sự thiếu vắng ý chí hay sự quan tâm chính trị trong những
công chức ở cấp cao hơn và các quan chức chính trị. Tại bất cứ trong tiến trình này, sự
thiếu vắng một cam kết từ cấp cao nhất hay tầng thấp nhất đều có thể thực sự phá hỏng

những nỗ lực cải cách. Hơn nữa, cải cách có thể bị đe doạ nếu như, một nhân vật có thế lực
không tuân thủ hay một công chức làm chậm tiến độ của nó.
Cũng như những nỗ lực cải cách phải được sự hỗ trợ rộng rãi, chúng phải được
hướng vào tất cả những người liên quan và hưởng lợi từ tham nhũng. Những chiến dịch
nhằm vào những người vi phạm lặt vặt, hay xử lý chẳng hạn, một vài thành viên trong
những phần tử có thế lực, mà không xử lý tham nhũng một cách có hệ thống thì sẽ mau
chóng làm mất hết hợp pháp và tạo ra những tấm gương có sức khuyến khích những hành
động sai trái tiếp diễn trong toàn thể các thành viên của xã hội. Cải cách cũng có thể kém
hiệu quả nếu được tiến hành một cách vô tổ chức, phối hợp kém, có tính đột xuất, hoặc nếu
việc dựa quá nhiều vào luật pháp và cưỡng chế sẽ dẫn đến tình trạng nguy cơ tham nhũng
lớn nhất. Cán bộ luật cần giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt những kẻ vi phạm,
song chúng cần được bổ sung bằng những cuộc vận động nâng cao nhận thức của dân
chúng bằng giáo dục và cải cách trên diện rộng.
1.2.3. Tác hại của tham nhũng với phát triển kinh tế
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về
mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển theo quy mô và mức độ gây hại
của nó. Chỉ riêng tổng thóng Môbutu của nước Công gô với số tiền tham nhũng trong các
năm cầm quyền lên tới 9 – 10 tỷ USD đã bằng70% số nợ nước ngoài của nước này.
Nó làm giảm lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức của bộ
máy nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I.
Lênin khuyến cáo. Nếu có cái gì đó có thể tiêu diệt được chủ nghĩa xã hội thì đó là tham
nhũng quan liêu. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại Đại hội lần thứ VI
của Đảng, đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.
Tham nhũng sẽ làm “tầm thường hoá” hệ thống pháp luật của nhà nước, kỷ cương
xã hội không thể giữ vững và là cơ hội cho kẻ thù phá hoại xâm lược. Nếu các nhà hàng
pháp mà tự mình phá bỏ luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ
tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp: làm cho
nhà nước trở thành đối lập và là gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu sẽ dẫn đến
phá hoại đội ngũ cán bộ nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dói và hủ hoá cấp
trên, làm cho bộ máy nhà nước trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu
vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những

tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành chính quốc gia. Tham nhũng là căn bệnh mãn
tính của nhiều quốc gia, khi các viên chức xấu đã mất lương tri và đạo đức của mình. Văn
kiện Đại hội VIII của Đảng ta cũng một lần nữa khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một
nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã có các biện pháp khắc phục song hiệu quả còn thấp. Phải tién hành đấu tranh
kiên quyết, thường xuyên và hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước, những
biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế chính
sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm
kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh.
Làm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng các cơ quan đơn vị chủ chốt
các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản
thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí,
quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản nhà nước, đòi
hối lộ, đưa và nhận hối lộ.

Tham nhũng
Tài nguyên
Chức quyền
Tài sản
khác
Trong
nước
Ký kết móc
ngoặt với
nước ngoài
Đất
đai
Phá hoại
công trình
di tích
Tiền Thông
tin
Phương
tiện làm
việc

Chương II: Vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế ở nước ta

2.1. Các vấn đề của tụt hậu kinh tế
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị
trường trong bố cảnh kinh tế – chính trị thế giới đang trong quá trình cơ cấu lại một cách
sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực châu á với nền văn minh Trung Hoa đặc
sắc và có sự phát triển kinh tế năng động nhất trong mấy thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có
phát triển vượt lên theo con đường phương Đông, con đường Việt Nam riêng có của mình
hay không?
So với nhiều nước trong khu vực, sự nghiệp phát triển của Việt Nam bị chậm vài
thập kỷ. Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một trong những nước nghèo nhất thế
giới và có nguy cơ sẽ còn tụt hậu mạnh hơn nữa nếu không có đường lối, chiến lược thông
minh và một quyết tâm cao.
Nước và lãnh
thổ
Năm xuất phát
cất cánh
Dân số (Triệu
người)
GN1* (tỷ USD)
GDP/người
USD
Đài Loan
1960
11
11
1000
Hàn Quốc
1960
25
18
700
Thái Lan
1960
26
8
300
Inđônêxia
1967
111
17
150
Việt Nam
1990
66
10-14
150-200

Bảng I: So sánh xuất phát điểm kinh tế của Việt Nam và một số nước
và lãnh thổ trong khu vực
Để tránh tụt hậu, chắc chắn Việt Nam phải hội nhập vào cộng đồng thế giới, nhưng
hội nhập thế nào, theo hướng nào, theo phương thức nào, tiếp thu cái gì là một vấn đề lựa
chọn mang tính quyết định. Trong khi đang tiếp tục tiến hành mới và phát triển kinh tế
Việt Nam phải đối mặt với chính mình với quá khứ và di sản của mình.
Khi đất nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thực chất là một cuộc giải phóng xã hội lần thứ 2, theo đó mỗi tiềm năng của môi cá nhân,
mỗi tổ chức kinh tế, xã hội, mỗi địa phương và vùng lãnh thổ được “giải phóng”. Sự kết

nối, tác động tương hỗ giữa chúng sẽ được thực hiện thông qua một cơ chế mới là cơ chế
thị trường kết hợp với các chuẩn mực đạo đức, văn hoá và xã hội mang bản sắc Việt Nam.
Trên một thập kỷ qua, công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đa đưa đất
nước ta thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội, đạt được sự tăng trưởng cao và liên tục
từ năm 1991, đời sống nhân dân đã ngày được cải thiện, nhiều mặt của đời sống xã hội đã
được thay đổi tích cực; nền kinh tế đã được mở cửa với thế giới gúp Việt Nam sử dụng
được các lợi thế so sánh của mình có được nguồn tăng trưởng quan trọng bên ngoài… Tuy
nhiên, cũng đã xuất hiện nhiều vấn đề mới khiến chúng ta phải suy ngẫm. Các quan hệ
kinh tế thị trường một mặt phá vỡ những cơ cấu và cơ chế kìm hãm phát triển, nhưng mặt
khác cũng gây ra những vấn đề mới, mặt tiêu cực, mặt trái cần phải được xem xét và xử lý.
2.2. Nguyên nhân của tụt hậu xa hơn về kinh tế
Kể từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua
hết các khó khăn này tới khó khăn khác. Nhân dân ta đã đánh bại tên thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ… để xây dựng lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Và kể từ khi đất nước được
hoàn toàn giải phóng Đảng lại lãnh đạo nhân dân ta trong công cuộc phát triển kinh tế.
Song, ngoài những thành tựu rất đáng kể, chúng ta còn có những khó khăn riêng. Đó là sự
tụt hậu hơn so với đà phát triển của thế giới. Mà sự tụt hậu này ngoài những nguyên nhân
chủ quan, còn có những nguyên nhân khách quan của nó.
Thứ nhất, do hậu quả của 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã tàn phá những thành tựu của
dân tộc ta. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã phải chống đỡ với rất nhiều khó khăn: khó
khăn về đất nước mất chủ quyền, và nền kinh tế bị lạm phát và Đảng và nhân dân ta đã
phải gồng mình chống đỡ. Năm 1954 thì miền Bắc mới hoàn toàn giải phóng để đi lên phát
triển kinh tế, nhưng miền Nam vẫn bị đô hộ của đế quốc Mỹ. Do đó lúc bấy giờ việc quan
trọng nhất là giải phóng miền Nam. Và khi đó miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
với các khẩu hiệu: “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “tất cả vì miền Nam thân yêu”.
Nhưng không chỉ đơn thuần phát triển kinh tế, miền Bắc cũng phải chịu những cuộc rải
thảm bằng bom rất ác liệt, nó được ví như “Điện Biên Phủ trên không”, đế quốc Mỹ đã
ném xuống miền Bắc hàng triệu tấn bom để ngăn cản miền Bắc đi lên và sự chi viện của
miền Bắc cho miền Nam. Khi đó hàng trăm ngàn tấn bom đạn của Mỹ đã tàn phá rất nhiều
những thành tựu của miền Bắc, nhưng không vì thế mà miền Bắc không phát triển, không
viện trợ cho miền Nam ruột thịt. Miền Bắc vẫn phát triển và ngày càng viện trợ nhiều về

người và tài sản cho miền Nam. Và đến năm 1975 đã chứng kiến cuộc một nước thuộc địa
nhỏ đã đánh bại một tên trùm đế quốc xâm lược lớn. Kể từ đó nước ta hoàn toàn thống
nhất, và nhân dân ta bây giờ chỉ còn việc bắt tay vào phát triển kinh tế. Nhưng nhìn vào
toàn cảnh đất nước ta năm đó, thì Việt Nam bị tàn phá hết sức nặng nề mà để xây dựng lên
các cơ sở hạ tầng như vậy để phục vụ cho phát triển thì ta cần rất nhiều thời gian, tiền của
và công sức.
Thứ hai, ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, đặc biệt là ngay sau khi miền
Bắc đi vào xây dựng xã hội mới. Khi đang tìm tòi con đường nối tiếp hợp lý với lịch sử và
bứt ra khỏi quá khứ thì do hoàn cảnh của lịch sử lúc đó, chúng ta đã thu nhập mô hình kế
hoạch hoá tập trung của Liên Xô và Trung Quốc cùng với việc nhận thức và vận dụng
chưa sáng tạo tư tưởng Mác – Lênin trong mô hình xây dựng kinh tế phù hợp với điều kiện
ở nước ta. Khi đang còn mò mẫm với mô hình kinh tế du nhập nói trên và đang bắt đầu
trăn trở với các vấn đề nảy sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước làm gián đoạn
con đường tìm tòi, sáng tạo mô hình kinh tế mới, mô hình tổ chức xã hội mới. Như vậy, ở
Việt Nam có một sự kết hợp giữa tư tưởng Nho giáo, tư tưởng Mác – Lênin đã có phần bị
giáo điều hoá và được nhận thức, được nuôi dưỡng trong môi trường chiến tranh lâu dài.
Vì vậy mô hình kinh tế Việt Nam là một mô hình rất đặc trưng, pha trộn nhiều màu sắc,
phản ánh nhiều xu thế và rất phức tạp.
Lý luận Mác – Lênin là học thuyết khoa học có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển xã hội, trong đời sống chính trị thế giới và phong trào công nhân quốc tế. Nó là
nền tảng cho sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, thể hiện sự khát vọng cao cả
của nhân loại, hướng tới một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn theo nghĩa đầy đủ nhất
của từ này. Việc sụp đổ của hệ thống XHCN vừa qua không có nghĩa đơn giản là sự sụp đổ
của tư tưởng Mác – Lênin. Với tư cách là một học thuyết khoa học. Tuy nhiên cần ý thứuc
rằng một học thuyết khoa học thì không thể coi nó như kinh thánh và cũng không thể giáo
điều; nó có sự sáng tạo và có những hạn chế tất yếu mang tính lịch sử. Do vậy, một nhà
yêu nước chân chính phải là người có trách nhiệm, và sứ mệnh làu giàu học thuyết đó về
khoa học và thực tiễn để nó tiếp tục có sức sống như một tinh hoa của nhân loại.
Nhưng đáng tiếc trong quá trình vận dụng tư tưởng Mác – Lênin đã có sự nhầm lãn
giữa mục tiêu và phương tiện, có một sự trái ngược giữa lời nói và việc làm, có sự xa rời
giữa triết lý nền tảng và phương pháp luận khoa học của nó. Đảng và Nhà nước ta sở dĩ

lãnh đạo được cách mạng dân tộc dân chủ và giải phóng đất nước thành công và được
nhân dân tin yêu, ủng hộ chính là nhờ trước hết vào việc Đảng ta đã đề ra được các mục
tiêu phù hợp với lợi ích thiết tha của dân tộc, của nhân dân. Nhưng sau khi cách mạng
thành công và trong công cuộc xây dựng kinh tế đã có sự nhầm lẫn trong cách xử lý mối
quan hẹ giữa mục tiêu và phương tiện, coi trọng xử lý các vấn đề cơ chế, vì quan hệ sản
xuất, coi đó mục tiêu, trong khi đó lại sao nhãng, coi nhẹ các vấn đề giải phóng lực lượng
sản xuất để tạo ra của cải và dịch vụ cho xã hội. Bên cạnh đó còn rất nhiều thói quen,
nhiều tập quán, nhiều di sản tác động không có lợi rất nhiều cho sự phát triển. Nếu không
ý thức được đầy đủ về ảnh hưởng về di sản quá khứ, ta sẽ không xác định được điểm xuất
phát; không biết cái gì là thuận lợi, tích cực cần được tạo điều kiện để tận dụng và phát
huy; không biết những cái gì là bất thuận lợi, tiêu cực cần phải hạn chế và vượt qua do đó
ta sẽ khó hình dung được một cách rõ ràng mục tiêu và con đường sẽ đi, cũng như không
thể ý thức được một cách rõ ràng và có chủ đích cái cần thiết, cái mới cần phải đưa vào
thực tế. Tình hình đó có nguy cơ dẫn đến một quá trình tiến triển tự phát, xen lẫn cũ, mới,
làm ta quyền mất không ý thức được cái cũ vãn đang tồn tại, vẫn nhạp vào tư duy hành
động, vào thực tại, cái cũ này hoặc là tồn tại dưới dạng phân giải hoà nhập vào thực tại,
hoặc dưới dạng chờ thời cơ trỗi dậy, hoặc được tân trang biến dạng, thay đổi màu da để
thích nghi với thực tại. Đồng thời, ta cũng quên, hoặc không có khả năng nhận thức thực tế
và nhận thức cái mới, thậm chí nhận thức của ta về lý tởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, của dân tộc có thể bị sai lệch và bị thành kiến. Và Đảng và Nhà nước ta đã có những
nhận thức nhất định để định hướng sự phát triển kinh tế đất nước. Năm 1986 là năm chính
thức nước ta mở cửa kinh tế vào một nền kinh tế mới là kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và đã có sự tăng trưởng quan trọng bên ngoài. Tuy nhiên các mặt trái của nó
cũng là một trong các nguy cơ lớn gây sự kém phát triển của nước ta đó là sự cạnh tranh
không lành mạnh, vi phạm quyền tự do của người khác. Hai là, do những động cơ lợi
nhuận và khuôn khổ của pháp lý chưa hình thành đầy đủ nên có sự xói mòn về các giá trị
đạo đức và các giá trị văn hoá truyền thống. Đây là thách thức lớn nhất không chỉ với Việt
Nam mà còn đối với tất cả các nước đang phát triển. Ba là, việc mở cửa nền kinh tế, hội
nhập với khu vực và thế giới. Điều này cũng có nghĩa là Việt Nam phải đối mặt với nền
văn minh mới của nền công nghiệp, nền văn minh phương Tây, nước ngoài, những sự lai
về văn hoá cũng như những tệ nạn, sự tha hoá bên ngoài nhập vào Việt Nam. Những quá

trình và những hiện tượng này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn đến sự suy đồi về văn hoá,
xã hội, cản trở sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
2.3. Sự tụt hậu xa hơn của Việt Nam so với các nước trên thế giới
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu số 1 của nhiều quốc gia và Việt Nam cũng
không ngoại lệ. Mặc dù, trong những năm đổi mới kinh tế, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ tăng
trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực, song chất lượng tăng trưởng vẫn là
một khâu yếu, cần phải đánh giá trên các bình diện khác nhau và đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, tránh tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế. Đánh giá vềkt
năm 1999 của Việt Nam, có ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã
vượt qua đây; ngược lại cũng có ý kiến cho rằng nền kinh tế chưa chặn được đà sút giảm
của tốc độ tăng trưởng. Năm 1989: 4,69%; 1990: 5,10%; 1991: 5,96%; 1992: 8,56%;
1993: 8,07%; 1994: 8,83%; 1995: 9,54%; 1996: 9,34%; 1997: 8,15%; 1998: 5,8%; 1999:
4,7%.
Trong khi đó, cũng vào những năm cuối cùng của thể kỷ XX Tây Âu đang nhanh
chóng trở thành một cực đặc biệt thu hút nền kinh tế thế giới và có sức mạnh kinh tế. Vớ
hơn 340 triệu dân, tổng sản phẩm xã hội hơn 5,5 nghìn tỷ USD, các nước Tây Âu chiếm
1/3 sản phẩm công nghiệp của thế giới TBCN. Đặc biệt trong những năm đầu của thập kỷ
90, quá trình liên kết chính trị đang diễn ra ở Tây Âu đã giúp cho việc ổn định tình hình
kinh tế khu vực, tạo điều kiện cho Tây âu phát triển về chất.
Với khu vực kinh tế châu á – Thái Bình Dương thập kỷ 90 thì được dự báo là tiếp
tục tăng nhanh. Đại đa số cho rằng, kinh tế các nước đang phát triển ở Đông á tiếp tục duy
trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm 90. Trong đó, đặc biệt chú ý là cộng hoà dân
chủ nhân dân Triều Tiên, Thái Lan, Mailaixia, Trung Quốc.

Chương III: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế
trên thế giới

3.1. Tình trạng một số nước trên thế giới
3.1.1. Tandania:
Thực trạng tham nhũng không bắt đầu với việc giành độc lập từ sự thống trị của
thực dân, mà nó cũng không phản ánh một khuynh hướng của châu Phi về hành vi sai như
đôi khi người ta vẫn cho là thế. Trên thực tế, tham nhũng và sự thiếu vắng tinh minh bạch
trong chính phủ được ghi nhận là những đặc điểm của sự thống trị thực dân ở Tandania,
cũng như tình trạng chung trên toàn châu Phi. Trách nhiệm đối với người dân địa phương,
gần như chắc chắn là thiếu vắng trong suốt thời kỳ thuộc địa. Chính phủ có tính chất đàn
áp và nó nhận được quyền lực từ sự ưng thuận của những người bị cai trị.
Nền độc lập của Tandinia năm 1964 không thông báo sự gia tăng rõ rệt của các
thông lệ tham nhũng. Trong những năm qua ngay sau độc lập, tham nhũng có chiều hướng
bị hạn chế trong những quan chức cấp thấp. Tham nhũng chưa tràn lan tới những cấp cao
hơn trong khu vực công chức và tác động của nó vẫn còn đủ nhẹ để không làm xói mòn
hiệu quả tổng thể của khu vực công chức Nhà nước. Sự tồn tại về bộ luật về ban lãnh đạo
xã hội chủ nghĩa và cam kết mạnh mẽ của tổng thống đấu tranh chống tham nhũng, kết
hợp với mức lương trả cao cho công chức nhà nước và tốc độ tăng trưởng kinh tế vững
chắc, đã giúp cho việc hạn chế tình trạng tham nhũng quá quắt và kiểm soát ở mức độ lớn
hơn những hành vi tồi tệ.
Tuy nhiên, cuối những năm 1960 và những năm 1970 là thời kỳ bắt đầu suy giảm
mạnh và phải trả giá đắt về các phương diện hiệu quả tính chuyên nghiệp và sự toàn vẹn
của dịch vụ công cộng của Tandania. Nhiều nhân tố kết hợp lại đã tạo ra một môi trường
thích hợp cho sự phát triển và tràn lan của tham nhũng trên quy mô lớn. Người ta cho rằng
một trong các nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng lan tràn tệ nạn tham nhũng trong
những năm 1970 là chương trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được đề xướng trong tuyên bố
chính thức Arusha tháng 2 năm 1967 và theo đó là sự bành trướng của nhà nước trong hầu
như mọi khu vực đời sống ở Tandania. Khu vực công cộng ở Tandania phát triển với tốc
độ nhanh, buộc vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế tương ứng phải thu hẹp. Từ
năm 1966-1979 con số các cơ quan, tổ chức công cộng ở Tandania tăng từ 43 lên 380.

Trên thực tế, công cuộc quốc hữu hoá các tập đoàn tư nhân vào năm 1967 đã khiến
chính phủ trở thành người thuê nhân công lớn nhất và duy nhất trong đất nước, liên quan
tới tất cả các lĩnh vực từ bán lẻ cho tới xuất nhập khẩu, thậm chí là cả việc nướng bánh. Vì
phạm vi quyền lực của chính phủ tăng lên, nên các bậc thang trong bộ máy công chức nhà
nước và những cơ hội để cho các cá nhân quan chức đó khai thác quyền lực mới được thiết
lập của họ để mưu lợi cá nhân cũng tăng theo. Và việc làm tăng gấp bội các thủ tục quan
liêu phiền hà trong hầu hết mọi giao dịch với chính phủ đã gây ra những chậm trễ không
cần thiết và những bảo bối về phía những người tiếp nhận những loại dịch vụ công cộng.
Ngoài ra sự lan tràn của tham nhũng, được trợ lực mạnh mẽ bởi tình trạng suy giảm liên
tục trong tăng trưởng trong những năm 1970, sự quản lý lệch lạc trong nội bộ nền kinh tế
cũng phải chịu trách nhiệm một phần. Các chính sách của chính phủ thường bóp nghẹt
tăng trưởng kinh tế. Trước tình trạng khủng hoảng ngày càng nặng nề thì sự giám sát và
tính chịu trách nhiệm, đạo đức công chức nhà nước bắt đầu suy yếu, khiến cho nhiều nhân
viên có ấn tượng rất sai lầm rằng họ không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai, và có
quyền chỉ thực thi những nhiệm vụ của mình khi họ thấy là phù hợp. Điều đó làm tăng
đáng kể những cơ hội cho sự lạm dụng quyền lực. Và vấn đề này ngày càng nghiêm trọng
trong những năm 1980 và bắtđầu những năm 1990. Những nỗ lực của chính phủ để hạn
chế tham nhũng ở một mức độ lớn là không có hiệu lực. Chúng bao gồm chủ yếu việc ử lý
những vụ việc riêng lẻ, giữa vô số tiếng kèn lệnh mà không nhằm tới bối cảnh tổng thể đã
tạo điều kiện và kích thích tham nhũng lan tràn. Dù Chính phủ đã ban hành một số thông
tư đưa ra các nguyên tắc chung cho các chiến lược phát hiện tham nhũng và những biện
pháp để đảm bảo rằng các chính sách và thủ tục của khu vực công chức nhà nước sẽ phản
ánh cao nguyên tắc và minh bạch và có trách nhiệm. Song vẫn bế tắc. Khi Tandania
chuyển từ chế độ một đảng sang chế độ đa đảng vào giữa những năm 1990. Cả chính phủ
lẫn công chúng đều giành sự quan tâm sâu sắc hơn cho vấn đề tham nhũng đặc biệt là ngay
trong quá trình bầu cử cũng bị đặt vào tình thế nguy hiểm bởi các thông lệ tham nhũng.
Do đó cuộc chiến ở Tandania có thành công hay không vẫn là một dấu hỏi. Tuy
nhiên, đối với Tandania thì rõ ràng đều kỳ vọng ở đó là rất lớn và không liên quan tới cái
gì khác là những triển vọng phát triển của đất nước và nhân dân Tandania.
3.1.2. Uganda

Uganda ngày nay là một xã hội đang chuyển đổi, sau 2 thập kỷ nội chiến dữ dội,
tham nhũng nghiêm trọng, mất ổn định và suy thoái kinh tế, giờ đây Uganda có vẻ như
đang chuyển động hướng đến khôi phục lại sự tăng trưởng kinh tế và một nền dân chủ cao
hơn. Giới báo chí giừo được tự do và ồn ào. Các cuộc bầu cử được tổ chức từ năm 1996,
một bản Hiến pháp mới được ban hành vào T10/1995 sau vài năm tranh luận kịch liệt, một
chương trình cải cách khu vực công cộng có ảnh hưởng sâu rộng đang được tiến hành.
Những thách thức to lớn vẫn còn nằm ở phía trước. Một chính phủ minh bạch có trách
nhiệm, là cơ sở cho việc xây dựng một nhà nước dân chủ chưa từng có trong lịch sử của
đất nước Uganda độc lập. Từ thời kỳ thực dân sự áp bức và tham nhũng đã là đặc trưng rõ
ràng của sự cai trị. Chính quyền thực dân Anh, không có trách nhiệm giải trình trước nhân
dân Uganda và không điều hành công việc theo nguyên tắc công khai, minh bạch và trách
nhiệm. Các chính sách thực dân cũng làm tăng thêm những căng thẳng xã hội và sắc tộc
trong nước, từ đó góp phần khuấch động xung đột và sẽ xác định tính chất nền chính trị ở
Uganda trong ba thập kỷ sau đó.
Kể từ khi giành độc lập, tháng 10 năm 1962, Uganda trở thành một đất nước độc
lập, nhưng không hoàn toàn, với một nền văn hoá chính trị không thích hợp cho sự tồn tại
của một hệ thống chính quyền công khai và dân chủ. Vào năm 1996 khi tổng thông mới
Obate lên nắm quyền kéo theo đó là sự tăng lên nhanh chóng các đơn vị quốc doanh đã
báo trước sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng lan tràn khắp Uganda. Các hợp tác xã quốc
doanh thâu tóm các tổ chức độc quyền chế biến và tiếp thị nông sản phẩm vốn đã nằm
trong các công ty Châu Âu, cũng như hàng loạt các hoạt động chủ yếu trong cung cấp điện
năng, sản xuất xi măng, và du lịch. Thậmchí trong một số trường hợp còn bị xếp vào loại
“khu vực tư nhân” nhưng, các hợp tác xã này vẫn được nhà nước bao cấp và những người
quản lý hợp tác xã do chính phủ bổ nhiệm. Với sự kiểm soát trực tiếp đối với giá cả của
nhà sản xuất, thuế đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ, giấy phép xuất nhập khẩu, mua
bán ngoại tệ và vô số các loại giấy phép khác được đòi hỏi với ngay cả những khía cạnh
trần tục nhất của cuộc sống hàng ngày, các đơn vị quốc doanh và các cơ quan và các cơ
quan nhà nước khác đều ngả về phía tham nhũng. Và những năm sau đó sự tham ô và
những hành động cướp đoạt trắng trợn không hề bị kiểm soát. Với chính sách trục xuất
những người châu á không phải là công dân Uganda, tịch thu tài sản cá nhân và doanh
nghiệp của họ rồi phân phát chúng cho giới quân nhân, những kẻ có thế lực và các đơn vị

quốc doanh. Từ đó dẫn đến trong vòng chưa đến một thập kỷ, giá trị thực của tiền công,
tiền lương bị mất đi đến 90% (do lạm phát). Cuộc khủng hoảng thu nhập được phản ánh
qua sự xuất hiện của nền kinh tế song song, hay là kinh tế ngầm.
Công chức Uganda chiếm một tỷ lệ lớn trong những người làm công ăn lương và tỷ
lệ lạm phát tăng vọt buộc nhiều người phải tìm kiếm những nguồn thu nhập phụ thêm. Một
số hoạt động thậm chí còn rõ ràng là bất hợp pháp hơn. Các kho dự trữ do chính phủ sở
hữu bị bán đi một cách kín đáo. Tài sản công được cung cấp cho việc sử dụng tư để đổi lấy
một khoản kinh phí, và những khoản lại quả 10-15% trở thành thông lệ trên các bản hợp
đồng ký với doanh nghiệp nước ngoài và trong các dự án viện trợ. Không mấy lo sợ về
chuyện bị truy tố, các quan chức trao hợp đồng xây dựng các công trình công cộng cho
những công ty tư nhân do chính bản thân họ đứng ra làm chủ hoặc thuộc sở hữu của gia
đình, bạn bè họ.
3.1.3. Xiera Leôn
Ngày nay, đối với người dân Xiera Leôn thì tham nhũng là một cách để sống, bất
chấp vô số sự thay đổi trong chính phủ, cả công dân lẫn quân sự, nạn tham nhũng và
những hoạt động phi đạo đức đang hoành hành và lan tới tất cả các cấp chính quyền thì
hầu như không có sự thay đổi. Trong cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân, những
hoạt động phi đạo đức đã khiến cho các cuộc khủng hoảng kinh tế vốn đã nghiêm trọng và
kéo dài của đất nước lại càng nghiêm trọng thêm. Kể từ những năm 1980, Xiera Leôn đã
trải qua tình trạng suy thoái kinh tế và khắc nghiệt nhất trong lịch sử quốc gia này.
Nhiều người ở những vị trí có trọng trách đã đặt quyền lợi cá nhân của họ lên trên
hết và đặt quyền lợi chung của đất nước xuống hàng cuối cùng. Thất bại liên tiếp của các
chiến lược cải cách trước đây, ở một mức độ lớn là do sự thiếu hiểu biết về những căn
nguyên và động lực của tham nhũng. Những biện pháp được sử dụng trước đây đều thiếu
sự phối hợp, ý chí chính trị, sự lãnh đạo và sự tham gia của công chúng.
Năm 1992 Xiera Leôn đã thành lập các uỷ ban điều tra để nhận diện những quan
chức nhà nước và doanh nhân, nhừng người đáng lên án do cực kỳ thiếu trung thực, tắc
trách và lạm dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng. Các uỷ ban đã phanh phui vô số vụ
tham nhũng móc nối chằng chịt, trong đó có cái gọi là cướp ngày của các chính khách và
công chức nhà nước, trộm cắp và lừa đảo các bên ký hợp đồng của chính phủ và âm mưu
của các doanh nghiệp nước ngoài, trong nước, của các nhà chính trị, công ty xuyên quốc

gia. Những kẻ phạm tội này với phương thức cá nhân tập thể đã đục khoét tiền của, hàng
hoá và dịch vụ của nhà nước.
Cho dù chính quyền đã bàn nhiều về tính minh bạch và trách nhiệm, nhưng cũng
chẳng được bao nhiêu để biến những lời hứa cam kết thực sự nhằm phát hiện và trừng phạt
những hành vi vô đạo đức. Chính phủ bị ngập trong những lời tố giác từ khắp nơi.
Và từ năm 1996, dân chúng Xiera Leôn đã bầu ra một cách dân chủ một chính phủ
mà cũng giống như những người tiền nhiệm của nó, tuyên bố rằng, họ muốn chống tham
nhũng và phục hồi tính toàn vẹn. Nhưng các cải cách đã gây thất vọng, một chính phủ
phình to (45 bộ, thứ trưởng) trong 1 đất nước chưa đầy 5 triệu dân, một nền kinh tế teo dần
làm cạn kiện các nguồn lực công cộng. Ngày 27 tháng 5 -1997, cuộc đảo chính ở Freeoun
là lần cưỡng chế thay đổi chế độ thứ 3 thành công trong vòng 5 năm là cuộc đảo chính
đẫm máu và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử Xiera Leôn. Những người chiến đấu đã
tuyên hứa sẽ hành động vì lợi ích của quốc gia. Họ đưa ra những lý do mang màu sắc dân
tuý cho sự can thiệp: tham nhũng, chủ nghĩa thiên vị khu vực… Những động lực và hành
vi nổi loạn gần như hoàn toàn mang tính tự thân và người ta đã gây ra sự tàn phá nặng nề
trong những ngày sau tiếp quản. Quyền lực quân sự được áp đặt đối với người dân, làm
cho nền kinh tế bị tê liệt. Và đầu năm 1998 trở về đây các lực lượng kinh tế đã can thiệp
thành công để lật đổ quyền lực của chính phủ quân sự và dần dần đưa nền kinh tế Xiera
Leôn về đúng quỹ đạo của nó là phát triển.
3.2. Khoảng cách về kinh tế giữa các nước trên thế giới
Theo “World Economic Outlook” của IMF trong thời gian 1900-2000. GDP toàn thế
giới (theo giá hiện hành) tăng 19 lần so với những năm đầu thế kỷ XX, bình quân tăng
3,7%. Còn dân số thế giới tăng 4 lần. Sự gia tăng GDP và dân số thế giới ở thế kỷ XX gây
ra nhiều nghi ngờ về khả năng ổn định ở khuynh hướng này. Đó là nhìn vào tổng thể còn
nhìn vào các khía cạnh của nền kinh tế từng nước thì ta thấy sự chênh lệch rất lớn giữa các
nước về kinh tế cùng với sự tăng trưởng của kinh tế thế giới.
Thực vật, các tài liệu tổng hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội thế giới thế kỷ XX
của IMF cho biết rằng trong 100 năm qua. GDP/người của 1/4 dân số giàu nhất thế giới
tăng 6 lần và của 1/4 dân số nghèo nhất thế giới tăng 3 lần.
Những nước nghèo nhất thế giới (đầu thế kỷ XX) – 19000: gồm Gana, Ai Cập, Băng
La Đet, ấn Độ và Trung Quốc, ngoài ra còn một số nước nữa ở Châu Phi, Châu á, Châu

Mỹ. Còn những nước giàu nhất thé giới đầu thế kỷ 20 bao gồm những nước trong câu lạc
bộ nhà giàu OEDC, Hungari, Tiệp Khắc (cũ). Như Bồ Đào Nha – GDP/người là: 1410
USD, cao nhất ở Anh: 4600 USD/người. Bình quân GDP/người của nhóm này đầu thế kỷ
XX là 3200 USD. Những nước giàu nhất cuối thế kỷ XX gồm các nước đầu thế kỷ và thêm
nhiều nước khác Achentina, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó thu nhập thấp nhất
là ở Hungari – GDP/người là 2050 USD và cao nhất ở Mỹ – GDP/người là: 27270 USD và
bình quân GDP/người của nhóm này năm 2000 là: 18.000 USD.
Trong số các nền kinh tế lớn của thế giới ở đầu thế kỷ XX thì ấn Độ (diện tích 3,270
triệu Km2), dân số 1.005,3 triệu người) vẫn ì ạch trong cảnh đói nghèo: Brêdin (diện tích
8.312 triệu Km2, dân số 169,6 triệu người) vẫn nằm trong khu vực các nước có thu
nhập/người dưới trung bình của thế giới đầu và cuối thế kỷ XX. Thu nhập/người bình quân
ở nhóm dưới trung bình của đầu thế kỷ 20 là 675 USD và cuối thế kỷ là 2400 USD. Nga
(diện tích 17 triệu km2, dân số 147,2 triệu người) lại ở vào tình trạng bi đát hơn, từ nước có
GDP/người (1220 USD) được xếp trên mức trung bình thế giới, cho đến năm 2000 bị tụt
xuống nhóm nước có thu nhập dưới mức trung bình của thế giới – GDP/người của Nga
năm 2000 là 3685.
Đến cuối thế kỷ 20 (năm 2000) GDP/người ở nhiều nước nghèo vẫn còn thấp hơn
GDP/người ở các nước phát triển đầu thế kỷ 20 (năm 1900). Vid dụ, nếu GDP/người toàn
châu Phi năm 2000 là 1290 USD (theo giá cả và sức mua của đồng nội tệ của mỗi nước
năm 1995 – tính chuyển ra USD) thì GDP/người năm của các nước Tây Âu là 3090 USD,
của các nước dân Châu Âu nhập cư (Mỹ, Canada, Oxtraylia, Niu Dilân) là 4020 USD.
GDP/người ở Châu Phi vào năm 1990 là500 USD, nghĩa là thấp hơn 9,2 lần
GDP/người của Anh. Còn đến năm 2000, chỉ tiêu này của châu Phi thấp hơn của Mỹ –
nước giàu nhất thế giới từ năm 1900 đến nay – là 20 lần (GDP/người của Mỹ năm 2000 là
27.270 USD).
Nếu dùng GDP/người để so sánh mức độ bình đẳng về thu nhập giữa các nước và
khu vực trong khi kinh tế ngày càng phát triển, của cải xã hội ngày càng gia tăng, thì có
thể nói rằng, nét nổi bật nhất của nền kinh tế thế giới thế kỷ 20 là khoảng cách thu nhập
giữa giàu và nghèo giữa các nước và các khu vực ngày càng doãng ra và tỷ lệ theo thời
gian.
Khu vực và nước
So với Anh (%)
So với Mỹ (%)

1870
1900
1913
1950
1973
2000
Tây Âu
64,7
67,3
69,8
53,5
74,0
74,1
Các nước có dân Châu Âu nhập cư
74,8
87,6
98,7
96,7
96,7
96,5
Nam Âu
34,0
24,2
33,0
21,1
36,2
36,1
Đông Âu, trong đó:
33,3
29,9
31,9
27,5
34,6
15,5
– Đông Âu (trừ Liên Xô cũ)
35,9
25,1
38,2
23,9
30,9
13,3
– Liên Xô cũ
31,4
26,5
28,0
29,6
36,5
16,6
Mỹ La Tinh
23,3
23,4
27,1
26,0
26,4
20,1
Châu á :
17,8
14,8
14,0
8,0
10,8
15,9
– Châu á (trừ Nhật và Trung Quốc)
19,0
14,4
13,7
7,8
8,6
8,3
– Nhật Bản
22,7
24,7
25,1
19,6
66,3
75,6
– Trung Quốc
16,0
14,2
13,0
6,4
7,1
23,0
Châu Phi
14,7
10,9
10,8
8,7
7,9
4,8
Toàn thế giới
27,4
27,5
20,9
22,3
24,8
21,9

Bảng trên cho thấy rằng, trong thời gian 1870 – 1900 (thời kỳ vàng son cổ điển)
GDP/người ở những nước độc lập của Mỹ latinh, đặc biệt là ở những nước có dân châu Âu
nhập cư (Mỹ, Canada và Niu Dilân) dần dẫn đuổi kịp Anh Châu Phi và Châu á (trừ Nhật)
mãi sau thế chiến thứ 2 mới dần dần thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, cho nên bị mất
bình đẳng trong quan hệ kinh tế và thương mại với các nước đế quốc, do vậy GDP/ người
của các nước ở khu vực này thua xa Anh và Mỹ suốt 30 năm cuối thế kỷ XIX cho đến năm
2000. Tuy nhiên , thời gian 1870 – 1900 là thời kỳ thương mại va vốn được di chuyển
tương đối dễ dàng qua các biên giới góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, phát triển sản
xuất, làm cho GDP bình quân năm trong thời gian này của thế giới tăng 1,5%.
Tiếp theo là thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế thế giới và 2 lần chiến tranh thế giới. ở
thời kỳ này, thương mại thế giới và các dòng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế bị suy giảm,
làm GDP/ người toàn thế giới bị suy giảm dần và thua xa Mỹ: Thời kỳ khôi phục kinh tế
sau thế chiến thứ 2. Cho đến năm 1973 GDP các nước Tây Âu, Nhật tăng nhanh gần đuổi
kịp Mỹ về GDP/ người: Đông Âu và Liên Xô, mặc dù thua các nước OECD về phát triển
kinh tế, nhưng GDP/ người cùng đang có chiều hướng đi lên. Mỹ Latinh và Châu á (trừ

Nhật, Trung Quốc) GDP/ người về cơ bản vẫn tăng chậm, Châu Phi lại càng thấp hơn,
GDP/ người ngày càng thua xa Mỹ.
Sau năm 1973 đến năm 2000 một số nước Châu á , trong đó phải kể đến Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo và Malaixia bước vào thời kỳ hưng
thịnh, kinh tế phát triển liên tục, ổn định cho tới trước cuộc khủng hoảng thị trường tài
chính Châu á (trước tháng 7 năm 1997). Còn Mỹ Latinh và Châu Phi trong thời kỳ kinh tế
vẫn tăng trưởng chậm.
8 năm cuối cùng của thế kỷ XX là thời kỳ kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tục và ổn
định cho tới tháng 3 năm 2001, thời kỳ kinh tế Mỹ có dấu hiệu bị trì trệ. Đây cũng là thời
kỳ Đông Âu và nước Nga đang trong thời kỳ chuyển đổi từ chế độ kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường, cho nên GDP/ người ở khu vực này thua xa các nước OEDC và lại
càng thua xa Mỹ.
Và vào thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ, Mỹ nổi lên như là siêu cường
số 1 thế giới cả kinh tế lẫn quân sự. Câu hỏi đặt ra là trong các thập kỷ đầu của thiên niên
kỷ mới liệu Mỹ có duy trì được vai trò đầu tầu trong nền kinh tế thế giới. Liệu các nước
EU có vượt Mỹ không? Đông á có trở thành trung tâm kinh tế năng động của nền kinh tế
thế giới không? Đó là những mục tiêu và là thách thức đối với tất cả các nước, nhất là các
nước đang phát triển trong các thập kỷ tới.
Các trung tâm khoa học kinh tế lớn đã đưa ra nhiều dự báo mang tính định lượng và
định tính về nền kinh tế thế giới trong các thập kỷ đầu cảu thế kỷ XXI. Nhìn chung các dự
báo dều đánh giá triển vọng, khả quan của nền kinh tế thế giới với mức tăng trưởng bình
quân 3% /năm trong giai đoạn 1990 – 2010 và 3,3% cho giai đoạng 1996 – 2010. Còn các
dự báo của các nhà kinh tế Nga là trong thời kỳ 2001 – 2005: 4,4%/năm, còn giai đoạn
2006 – 2010 là 4,6%/năm. Và sự tăng trưởng này phù hợp với chu kỳ dài hạn của nền kinh
tế thế giới.
Khu vực
1981-
1990
1991-
1996
1997
1998
1999
2000
2000-
2010
Thế giới
3,1
2,5
3,4
1,9
2,6
2,9
3,2
Các nước có thu nhập cao
3,0
2,3
2,9
2,0
2,6
2,5
2,7
Các nước đang phát triển
3,3
3,2
4,9
1,6
2,7
4,2
4,9
* Đông á
8,1
8,5
6,6
0,1
5,5
6,2
6,3

* Đông á bị khủng hoảng
6,9
6,0
4,5
-7,9
4,4
5,3
5,3
* Các nước đang phát triển
trừ nước chuyển đổi và các
nước ASEAN-5
3,1
5,5
5,6
4,1
2,7
4,4
5,0
Tăng trưởng của thế giới 1987 – 2010 (%)

3.3. Những vấn đề tồn tại, khó khăn trong việc rút ngắn tụt hậu xa hơn về kinh tế
– Tăng trưởng cao nhưng chất lượng thấp. Nói đến tăng trưởng là nói đến hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế ở 3 cấp: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
– Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm số người nghèo đói, nhưng khoảng cách giàu
nghèo tăng. Có 2 yếu tố giúp cho Việt Nam thành công trong việc giảm nghèo đói trong
thời kỳ 1993 – 1998 là tỷ lệ tăng trưởng cao, nhiều nguồn lực cho tăng trưởng được huy
động tích cực trong việc giảm nghèo đói. Hơn 10 năm qua, mức sống của đại đa số tầng
lớp dân cư được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% xuống 37% thời kỳ 1993 –
1998. Tuy nhiên chênh lệch giàu nghèo tăng ở các vùng, các tầng lớp dân cư. Quá trình
phân tầng xã hội hiện nay đang hình thành có nhiều đặc điểm khác trước. Theo số liệu điều
tra, mức sống dân cư năm 1998 của tổng cục thống kê thì chênh lệch mức sống thể hiện
qua mức chi tiêu giữa nhóm 20% số dân giàu nhất và 20% số dân nghèo nhất tăng từ 4,58
lần trên 5,52 lần trong thời kỳ 1993 – 1998. Chênh lệch về thu nhập giữa 2 nhóm này cũng
tăng từ 7 lần đến 11,3 lần trong cùng thời kỳ. Đặc biệt nếu chỉ xét 10% dân số giàu nhất
và10% dân số nghèo nhất thì mức chênh lệch lên tới 20 lần vào năm 1998. Do đó 20% số
người giàu nhất hiện tại chiếm 45,2% tổng thu nhập xã hội và 20% số dân nghèo nhất chỉ
chiếm chưa tới 8,6%.
Phần lớn số người giàu có việc làm trong các cơ quan Nhà nước, tham gia các hoạt
động kinh tế chính trị và làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài. Còn số người nghèo
đói chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Số chiếm tới 90% số người nghèo của các
nước. Do vậy với đà của tăng trưởng kinh tế thì hậu quả là chênh lệch về mức sống giữa
khu vực nông thôn và thành thị vẫn tiếp tục tăng. Nó lại là khó khăn trong việc phát triển
kinh tế.
Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn còn lớn.
Tiêu hao vật chất và xuất vốn trong đơn vị sản phẩm còn quá lớn. Xuất đầu tư cho xây lắp

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *