LUẬN VĂN:
Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất
khẩu hàng may mặc của công ty sản
xuất- xuất nhập khẩu Việt An
Lời nói đầu
Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức
cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra cũng không
nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở
cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của
nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan, chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những
bước tiến mới trong quá trình hội nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc
hậu.Lợi thế so sánh của nước ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu
vẫn dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự
chuyển dịch sang một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may,
giầy da…..
Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày càng trở
nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định, các
doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối thủ cạnh tranh biến đổi
nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật mới, những chính sách quản lý
mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi
chiến lược marketing là một triết lý của toàn công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng
biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì
phải có ưu thế về mọi mặt, phải có một chiến lược marketing rõ ràng.
Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trên
thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng
khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam được đánh giá cao
về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp nên hàng may mặc
của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường.
Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cạnh
tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã, nên đã xâm nhập thành công vào một số thị trường lớn
như:Mỹ, EU, Nhật Bản……
Song kể từ sau ngày 1-1-2005, việc bỏ quota nhập khẩu đối với các thành viên WTO đã
làm cho bản đồ xuất khẩu dệt may thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị
trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số
lượng, chất lượng, giá cả, thời gian……Chính vì vậy, bất kỳ công ty sản xuất kinh doanh
thuộc ngành may mặc luôn xác định được rằng việc xây dựng một chiến lược marketing luôn
là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với công ty.
Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất- xuất nhập khẩu
Việt An, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất-
xuất nhập khẩu Việt An”.
* Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm phân tích, đánh giá quá trình xây dựng chiến lược
marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty trong thời gian qua. Đồng thời, đề tài cũng
chỉ ra những thành công và những thách thức để qua đó thấy được ưu- nhược điểm của nó.
Từ đó vận vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh để đề xuất những biện pháp nhằm
hoàn thiện quá trình hoạch địch chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của Công ty.
* Giới hạn – phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài được chọn nghiên cứu ở khâu quan trọng,
có nhiều mối quan hệ kinh tế và liên quan đến rất nhiều vấn đề trong và ngoài Công ty. Do
không đủ điều kiện để đề cập toàn diện và giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra. Vì vậy, giới
hạn đề tài nghiên cứu trên góc độ tiếp cận môn học Marketing là chính.
* Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tiếp cận hệ thống và lôgic phương pháp phân
tích số liệu, phương pháp so sánh. Các phương pháp này vừa phân tích biện chứng, vừa đặt
nó vào hệ thống lớn của quá trình nghiệp kinh doanh ở Công ty.
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện với 3 chương:
– Chương I : Một số lý luận cơ bản về chiến lược Marketing xuất khẩu của công ty kinh
doanh quốc tế.
– Chương II : Thực trạng chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng may mặc của công
ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
– Chương III : Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng
may mặc của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
Chương I: một số lý luận cơ bản về hoàn
thiện chiến lược marketing xuất khẩu
của công ty kinh doanh
1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
1.1.1.Khái niệm về Marketing xuất khẩu.
Trước khi tìm hiểu khái niệm Marketing xuất khẩu ta phải hiểu được khái niệm về
marketing:
– Theo Philip Kotler: Marketing là sự phân tích tổ chức kế hoạch hóa và khả năng thu hút
khách của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và
mong muốn của nhóm khách hàng đã lựa chọn.
– Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đưa ra được định nghĩa Marketing phù
hợp, đầy đủ và xác thực như sau :
“Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh
doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực
sự về một loại hàng cụ thể đến việc đưa hàng hóa đó đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng
nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất”.
Marketing bao gồm hai loại là Marketing nội địa và Marketing quốc tế. Một trong những
hình thức của Marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức Marketing xuất khẩu.
Và Marketing xuất khẩu có thể hiểu là:
“Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định hướng dòng vận
động hàng hóa và địch vụ của các công ty tới người tiêu dùng hoặc sử dụng ở nhiều quốc gia
nhằm thu lợi nhuận cho công ty”.
1.1.2. Bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
a) Bản chất của Marketing xuất khẩu.
Marketing xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu chiếm lĩnh trên các thị trường nước ngoài. Sự khác nhau cơ bản giữa Marketing nội địa
và Marketing quốc tế ở chỗ là các hoạt động Marketing quốc tế phản ánh mức độ phức tạp và
tính đa dạng do phải đối phó với tính đa dạng của môi trường quốc tế.
Bản chất của Marketing quốc tế là xem xét và cân đối giữa những thay đổi của các yếu tố
môi trường bên ngoài và các chính sách Marketing hỗn hợp của công ty trên thị trường quốc
tế. Nhà quản trị Marketing quốc tế có nhiệm vụ hệ thống hóa và thi hành các chính sách
Marketing nhằm đảm bảo sự thích ứng giữa khả năng của doanh nghiệp với thị trường và môi
trường của nó nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi
tham gia vào thị trường quốc tế phải đưa ra một chương trình Marketing bao gồm các vấn đề
sau : đánh giá và lựa chọn thị trường, xác định phương thức hoạt động thích hợp và xác lập
các chính sách Marketing của công ty trên thị trường quốc tế.
b) Lợi ích của Marketing xuất khẩu.
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng. Trong đó sự đóng góp của Marketing xuất khẩu là rất cần thiết. Bởi vì bản
thân hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động vô cùng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro
khó có thể lường trước được như : những biến động về kinh tế-chính trị , xã hội, văn hóa, hệ
thống pháp luật… của nước nhập khẩu. Qua đó, hoạt động Marketing xuất khẩu có thể đem
lại những lợi ích to lớn cho mỗi doanh nghiệp.
Thứ nhất, các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn
nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng biệt của mình. Các khả năng riêng biệt này
được hiểu là những điểm mạnh duy nhất cho phép công ty đạt được hiệu quả, chất lượng, đổi
mới hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn.
Thứ hai, việc tham gia các hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ thấp chi
phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng “đường cong kinh nghiệm”; lợi thế quy mô cho
phép giảm chi phí cố định của một sản phẩm do chia chi phí cố định theo mức sản lượng lớn.
Tác động của đường cong kinh nghiệm sẽ làm giảm chi phí khả biến đơn vị sản phẩm do
nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế theo quy mô có thể không có được nếu thị hiếu của khách
hàng trong nước và những đặc điểm khác ở các nước khác nhau đòi hỏi một số các điều chỉnh
sản phẩm – phụ thuộc vào các sản phẩm liên quan và phương pháp sản xuất ra sản phẩm đó.
Ngoài ra, kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có
những ý tưởng mới mẻ hay những phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Từng cá
nhân sẽ phát triển kỹ năng quản lý chung của họ và nâng cao hiệu suất cá nhân. Họ sẽ trở nên
năng động hơn, và nâng cao hiệu quả công việc. Những mối quan hệ và kinh nghiệm có được
thông qua sự tiêu thụ, bán hàng ở thị trường nước ngoài có thể tạo cho công ty một lợi thế
cạnh tranh trong nước của mình. Nhờ đó mà công ty đạt được mục tiêu đặt ra, có được lợi thế
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.Phân định nội dung và hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu của công ty
kinh doanh quốc tế.
1.2.1. Phân tích tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu
Các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế luôn cần tìm ra các cơ hội kinh
doanh mới cũng như là luôn phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm giúp doanh
nghiệp luôn đạt được lợi nhuận cao. Do vậy, việc phân tích tình thế và thời cơ chiến lược
marketing xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác lập chiến lược marketing
của doanh nghiệp.
Phân tích các cơ hội thị trường được tiến hành thông qua việc phân tích các yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô như: nhân khẩu/kinh tế, công nghệ, chính trị/ luật pháp và văn hoá/ xã
hội…và những yếu tố quan trọng của môi trường vĩ mô như: khách hàng, đối thủ cạnh tranh,
kênh phân phối, người cung ứng có ảnh hưởng đến khả năng lợi nhuận của mình trên thị
trường đó.
Mỗi một đơn vị kinh doanh phải xây dựng một hệ thống marketing thông minh để theo
dõi những xu hướng và những bước tiến quan trọng. Đối với mỗi xu hướng hay bước phát
triển, Ban lãnh đạo cũng cần phải xác định những cơ hội và những mối đe doạ tiềm ẩn.
*) Cơ hội marketing là một lĩnh vực nhu cầu mà công ty có thể kiếm lời ở đó.Cơ hội có
thể liệt kê và phân loại theo mức độ hấp dẫn và xác suất thành công của nó. Xác suất thành
công của công ty phụ thuộc vào chỗ sức mạnh của công ty có tương xứng với những yêu cầu
then chốt để thành công không và có vượt lên trên được các đối thủ cạnh tranh không?Chỉ
riêng khả năng thì không tạo nên lợi thế cạnh tranh. Công ty có thành tích cao nhất sẽ là công
ty có thể tạo ra được giá trị lớn nhất cho khách hàng và duy trì được nó lâu dài.
Xác suất thành công
Mức cao thấp
độ
cao
hấp
dẫn thấp
Ma trận cơ hội
(1): cơ hội tốt nhất công ty nên có kế hoạch theo đuổi.
(2) và (3) : những cơ hội này công ty nên theo dõi và xem xét.
(4) : cơ hội quá nhỏ nên không cần xem xét.
*) Mối đe doạ là một thách thức do một xu hướng hay một bước phát triển bất lợi tạo ra sẽ
gây thiệt hại cho doanh số bán hàng hay lợi nhuận nếu không có biện pháp Marketing bảo vệ.
Mối đe doạ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng và xác suất xuất hiện của nó.
Xác suất xuất hiện
Mức Cao thấp
độ cao
nghiêm
thấp
trọng
Ma trận đe doạ
1
2
3
4
1
2
3
4
(1): những mối đe doạ chủ yếu công ty cần có kế hoạch chuẩn bị đối phó với mọi
bất ngờ.
(2) và (3) : không đòi hỏi phải có kế hoạch đối phó với những bất ngờ nhưng cần
theo dõi cẩn thẩn.
(4) : mối đe doạ này có thể bỏ qua.
1.2.2.Hoạch định mục tiêu chiến lược
Chiến lược Marketing xuất khẩu có 4 mục tiêu cơ bản sau:
+ Lợi nhuận
+ Vị thế của công ty
+ An toàn trong kinh doanh
+ Đảm bảo tính nhân bản trong chiến lược Marketing
a) Lợi nhuận.
Lợi nhuận là một yếu tố quan trọng nhất không thể thiếu được trong bất kỳ một doanh
nghiệp kinh doanh nào. Nó đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình tái sản xuất
mở rộng, đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình mua thêm các trang thiết bị mới
và có khả năng đứng vững trên thị trường. Đối với nhà quản trị Marketing không chỉ quan
tâm đến lợi nhuận kinh doanh mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận, phải tính toán được
mức lợi nhuận cho từng mặt hàng, từng ngành hàng cụ thể. Và qua đó thấy được ngành hàng
nào mang lại lợi nhuận cao cho công ty và cũng xác định quá trình Marketing nào sẽ mang lại
kết quả tốt nhất.
b) Đảm bảo vị thế của công ty.
Xác định được tầm quan trọng của các yếu tố vô hình này trong sự ảnh hưởng tới hành vi
mua bán của khách hàng trên thị trường. Các công ty thường mong muốn xây dựng được
lòng tin đối với những người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nói chung và khách hàng
của công ty nói riêng. Tuy nhiên, đạt được mục tiêu này là điều không dễ dàng đối với công
ty và cũng không thể làm được trong một thời gian ngắn. Thế lực của công ty được thể hiện ở
doanh số bán, thị phần mà công ty chiếm được, khả năng tích tụ và tập trung của công ty, khả
năng liên doanh liên kết của công ty với các công ty khác. Nó đòi hỏi các công ty phải hết sức
nỗ lực, có những chủ trương hành động đúng đắn, có những chương trình Marketing cụ thể
và sự phân bố nguồn vốn hợp lý.
c) An toàn trong kinh doanh.
Trong quá trình cạnh tranh, các công ty luôn phải đối mặt với những tác động của các quy
luật kinh tế (cung, cầu, cạnh tranh), những rủi ro, thách thức có thể xảy ra là rất lớn. Do đó,
mục tiêu này không kém phần quan trọng đối với công ty. Và để xác định mục tiêu này đòi
hỏi:
+ Các yếu tố marketing-mix phải thích ứng và phù hợp với thực tế đặc biệt của thị
trường khi có sự thay đổi.
+ Tùy theo thế lực công ty, chọn vùng an toàn trong kinh doanh
+ Chấp nhận quy luật chung của môi trường kinh doanh
+ Chấp nhận mạo hiểm để khai thác và đạt tới tần suất lợi nhuận cao
d) Đảm bảo tính nhân bản cho công ty.
Khi triển khai chiến lược Marketing đòi hỏi công ty không được phá vỡ môi trường sinh
thái, không vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của xã hội, dân tộc đồng thời tích cực giáo dục, nuôi
dưỡng thị trường theo chiều hướng văn minh và tính hiện đại trong tiêu dùng.
1.2.3. Hoạch định marketing mục tiêu
Muốn kinh doanh thành công trên thị trường nước ngoài thì trước khi xuất khẩu hàng hóa
sang thị trường khác, bất kỳ công ty kinh doanh quốc tế nào việc hoạch định Marketing mục
tiêu là vô cùng quan trọng. Hoàn thành tốt công việc này chính là đã tạo tiền đề hay là điểm
tựa để phát triển các bước tiếp theo. Việc hoạch định Marketing mục tiêu bao gồm các hoạt
động sau:
a) Lựa chọn thị trường mục tiêu.
Các công ty sản xuất – xuất nhập khẩu sẽ phải trả lời câu hỏi:
+ Tỷ lệ mà nó sẽ mở rộng hoạt động quốc tế là bao nhiêu?
+ Quốc gia nào sẽ xâm nhập?
+ Phân đoạn thị trường nào phải cung ứng?
+ Phân bổ nguồn lực và nỗ lực như thế nào cho tốt?
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố như tình thế – thời cơ chiến lược Marketing xuất
khẩu; các công ty kinh doanh quốc tế phải đưa ra những căn cứ với phương pháp lựa chọn
như sau:
* Những căn cứ lựa chọn :
– Về chính trị:
+ Thể chế chính trị của các quốc gia đó có thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của
công ty không?
+ Sự ổn định hay bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia đó.
– Về điều kiện tự nhiên.
– Về dân số.
– Các biến số kinh tế: GDP, GNP.
– Trình độ phát triển công nghệ kỹ thuật.
– Nhóm căn cứ vào quy chế tiền tệ :
+ Hình thức bảo hộ mậu dịch.
+ Tình hình tiền tệ, lạm phát, diễn biến của tỷ giá hối đoái.
– Căn cứ thương mại :
+ Quy mô và tính năng động thị trường.
+ Sự cạnh tranh quốc tế.
+ Tham gia các liên kết kinh tế.
– Các yếu tố văn hóa, thói quen tiêu dùng tôn giáo.
b) Xác định phương thức xuất khẩu.
Bao gồm:
* Xuất khẩu gián tiếp.
* Hợp tác xuất khẩu.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Phương thức xuất khẩu được coi là phương thức xâm nhập thị trường quốc tế phổ biến và
đơn giản nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu là phương thức đầu tiên được các công ty kinh
doanh quốc tế lựa chọn để tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế.
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng và
loại hình trung gian thương mại.
* Xuất khẩu gián tiếp.
Là phương thức sử dụng các đại lý xuất khẩu hoặc các công ty thương mại quốc tế hoặc
bán hàng cho chi nhánh của các tổ chức nước ngoài đặt ở trong nước. Với việc sử dụng
phương thức xuất khẩu này, các công ty sẽ không phải đối mặt với nhiều rủi ro trong kinh
doanh, đặc biệt khi các tổ chức nước ngoài sở hữu hoàn toàn về hàng hóa thì rủi ro hầu như là
không có. Có thể xem đây là hình thức bán hàng trong nước.
Loại hình xuất khẩu này là phù hợp với các công ty mà mục tiêu mở rộng ra thị trường
nước ngoài và nguồn lực cho việc xâm nhập thị trường quốc tế là hạn chế. Và tất nhiên, lợi
nhuận thu về là không nhiều do công ty phải chia sẻ cho nhà xuất khẩu trung gian một khoản
phí khá lớn.
Tuy nhiên, việc sử dụng loại hình xuất khẩu này công ty sẽ gặp một số rủi ro cụ thể như :
Thứ nhất, công ty sẽ hạn chế vệ việc kiểm soát được mức độ thấp toàn bộ cách thức hàng
hóa và dịch vụ được bán ở thị trường nước ngoài, sản phẩm có thể được bán qua những kênh
phân phối không thích hợp với dịch vụ và nỗ lực hạn chế xúc tiến không hiệu quả, không
đúng với mục tiêu mong đợi của công ty. Rất có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín và hình ảnh
của công ty trên thị trường nước ngoài làm mất những cơ hội hiếm có để mở rộng thị trường.
Thứ hai, đó là khả năng xác lập mối liên hệ trực tiếp với thị trường quốc tế của công ty là
hạn chế. Thông tin thị trường giữa doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng là bị ngăn cách
một cách gián tiếp qua trung gian thương mại, thông tin có thể không còn chính xác hoặc sai
sự thật. Đồng thời, công ty sẽ rất khó khăn trong nắm bắt thị hiếu tiêu dùng luôn thay đổi ở
nước ngoài. Từ đó việc tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách
hàng là khó khăn.
Thứ ba, khả năng bị mất thương hiệu là rất cao nếu công ty không tìm cách đăng ký và
bảo hộ nhãn hiệu độc quyền sản phẩm của công ty.
Việc công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp không hẳn đã là bước đầu tiên có hiệu quả
để tiến hành mở rộng thị trường quốc tế. Do đó, đòi hỏi công ty cân nhắc cẩn thận cho những
chiến lược lâu dài phát triển và tăng trưởng ở thị trường quốc tế.
* Hợp tác xuất khẩu.
Phương thức này thích hợp cho các công ty hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng bán không
đủ lớn để thiết lập một bộ phận xuất khẩu mà lại muốn kiểm soát được thị trường quốc tế ở
mức độ nào đó. Trong trường hợp này công ty thỏa thuận với một công ty khác để phối hợp
các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, vận tải, phân phối, tiêu thụ và các hoạt động
khác liên quan đến thị trường xuất khẩu. Việc sử dụng phương thức này cho phép công ty có
thể xâm nhập được thị trường quốc tế mà vẫn có thể kiểm soát được phần nào các hoạt động
phân phối bán hàng, xúc tiến thương mại nguồn thông tin thị trường là cập nhật hơn phương
thức xuất khẩu gián tiếp do có sự ràng buộc về trách nhiệm giữa hai bên được nêu rõ trong
hợp đồng thỏa thuận. Tất nhiên, lợi nhuận thu về lúc này vẫn chưa là tối đa hóa do bị phân
chia với đối tác.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Khi mà khối lượng xuất khẩu đủ lớn và công ty muốn tập trung nguồn lực của mình
vào phát triển thị trường quốc tế thì việc thiết lập tổ chức (chi nhánh, bộ phận) xuất khẩu là
thích hợp. Tổ chức xuất khẩu này có thể bố trí ở trong nước hoặc ở thị trường nước ngoài.
Trong trường hợp này, tổ chức xuất khẩu có thể đảm nhiệm tất cảc các chức năng xuất khẩu,
từ việc xác định thị trường tiềm năng, phân đoạn thị trường, thu xếp thủ tục chứng từ xuất
khẩu, vận tải cho đến hoạch định triển khai kế hoạch Marketing bao gồm giá, xúc tiến, phân
phối sản phẩm cho thị trường quốc tế.
Xuất khẩu trực tiếp thường đòi hỏi chi phí cao hơn và ràng buộc nguồn lực lớn để phát
triển thị trường. Tuy nhiên, công ty đã đạt được nỗ lực bán hàng và xúc tiến hiệu quả hơn,
cho phép công ty duy trì và kiểm soát được ở mức độ cao tất cả các điều kiện mà trong đó sản
phẩm được bán ở thị trường quốc tế. Mặt khác, xuất khẩu trực tiếp còn cho phép công ty có
sự liên hệ trực tiếp với thị trường, nắm bắt được phản ứng của thị trường để tìm ra những cơ
hội mới và xu hướng mới của thị trường, quản lý các hoạt động, nắm bắt, hiểu biết các đối
thủ cạnh tranh để điều chỉnh những kế hoạch thích ứng.
c) Lựa chọn các loại hình chiến lược Marketing xuất khẩu.
– Định dạng thời cơ và tăng trưởng cường độ :Với chiến lược này, thực sự có ý nghĩa nếu
như một công ty đã không khai thác hết những thời cơ có trong các nhãn hiệu và các thị
trường hiện hữu của mình. Các thời cơ tăng trưởng bao gồm 3 dạng sau :
+ Thâm nhập thị trường : các công ty có thể tìm cách gia tăng doanh số của sản phẩm
hiện có trong những thị trường hiện có thông qua nỗ lực tiếp thị năng động.
+ Mở rộng thị trường : các công ty tìm cách gia tăng doanh số qua việc đưa sản phẩm
hiện có vào các thị trường mới.
+ Khai thác thị trường : các công ty tìm cách gia tăng doanh số qua việc triển khai
những sản phẩm mới có liên quan mật thiết hoặc cải thiện những sản phẩm cho những thị
trường hiện có.
– Xuất phát từ những nguyên lý để thành công, các công ty phải thực hiện việc làm hài
lòng khách hàng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Các loại hình Marketing chiến
lược phải thích nghi đối với nhu cầu của người tiêu dùng, cũng như đối với các chiến lược
của những đối thủ cạnh tranh.
+ Marketing chiến lược dẫn đạo thị trường : một công ty nếu đang khống chế được
một thị trường, có thể áp dụng một hoặc nhiều chiến lược dẫn đạo thị trường. Công ty có thể
cố gắng mở rộng toàn bộ thị trường bằng cách mở rộng, thu hút khách hàng mới, tính năng đa
dạng hơn và công dụng mới. Công ty có thể tăng thị phần của mình bằng cách đầu tư nhiều
hơn, để thu hút khách hàng bên đối thủ cạnh tranh tung ra những sản phẩm tiếp thị mới để hạ
thủ đối thủ cạnh tranh, trước khi họ trở thành mối đe dọa chính yếu.
+ Marketing chiến lược thách đố thị trường : Những nhà thách đố thị trường là những
công ty đứng hàng thứ hai hiện nay đang năng nổ tấn công các đối thủ cạnh tranh để đạt được
thị phần nhiều hơn. Công ty thuộc loại này có thể tấn công vào các công ty hàng đầu và các
công ty khác có cùng quy mô, tầm cỡ như họ hoặc những công ty có tính chất địa phương và
khu vực nhỏ hơn.
+ Marketing chiến lược theo sau : những công ty sử dụng chiến lược theo sau thị
trường tìm kiếm thị phần và lợi nhuận ổn định bằng cách đi theo sau các chương trình tiếp
thị, giá, mặt hàng của đối thủ cạnh tranh, giữ khách hàng hiện có và thu hút thị phần nhiều
hơn ở những cái mới mà không gây nên sự trả đũa từ các công ty hàng đầu hay các đối thủ
cạnh tranh khác. Nhiều công ty đi theo sau thị trường khôn khéo thu được nhiều lợi nhuận
hơn các công ty hướng đạo.
+ Marketing chiến lược tiềm phục : Những công ty nhỏ trong một thị trường hoặc
thậm chí công ty lớn cũng chưa có sự định vị chắc chắn. Họ đi sâu vào phục vụ những
khoảng khuyết trên thị trường mà các đối thủ cạnh tranh chính yếu xem nhẹ hoặc bỏ qua. Các
công ty này thường tránh đối đầu với các công ty mạnh hơn bằng cách chuyên môn hóa theo
thị trường khách hàng, mặt hàng hoặc Marketing – mix. Bằng chiến lược này, các công ty có
thị phần ít vẫn có thể đạt được lợi nhuận như những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn mình.
Việc lựa chọn chiến lược thị trường Marketing quốc tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố như :
các nhân tố thuộc doanh nghiệp, về sản phẩm, về thị trường và các nhân tố Marketing. Trên
cơ sở xác định chiến lược lựa chọn theo thị trường, các doanh nghiệp có thể sử dụng các
phương pháp khác nhau để thực hiện sự lựa chọn đó.
1.2.4. Xác lập và triển khai các yếu tố Marketing hỗn hợp.
Marketing mix là tập hợp những công cụ marketing mà công ty sử dụng để theo đuổi
những mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục tiêu. Trong marketing – mix có bốn
yếu tố gọi là bốn P. Đó là sản phẩm(Product), giá cả( Price), tiêu thụ(Place) và xúc
tiến(Promotion). Những biến marketing cụ thể của mỗi yếu tố P được liệt kê trong hình sau:
Chủng loại
Chất lượng
Mẫu mã Sản phẩm Phân phối
Tên nhãn
Tính năng
Bao bì
Kích cỡ
Giá cả Khuyến mãi
Giá quy định Kích thích tiêu thụ
Chiết khấu Quảng cáo
Bớt giá Lực lượng bán hàng
Kỳ hạn thanh toán Quan hệ với công chúng
Điều kiện trả chậm Marketing trực tiếp
a) Quyết định về sản phẩm xuất khẩu.
Sản phẩm xuất khẩu là những sản phẩm mà khách hàng hay người tiêu dùng mua ở thị
trường nước ngoài để tiêu dùng nhằm thỏa mãn về vật chất hoặc tinh thần.
Sự cạnh tranh, phát triển kỹ thuật, những nhu cầu mới của khách hàng là những điều bức
xúc đòi hỏi doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện về sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể
đạt được bằng cách mua lại bằng sáng chế, giấy phép, triển khai mặt hàng mới, cải tiến mặt
hàng cũ.
– Kế hoạch hóa và phát triển sản phẩm xuất khẩu có các hình thức :
+ Giữ nguyên cách phổ biến có nghĩa là khi sản xuất hàng hóa cho thị trường
nước ngoài không có sự thay đổi nào. Việc giữ nguyên cách phổ biến có sức hấp dẫn vì nó
không đòi hỏi chi phí thêm, không đòi hỏi trang bị lại sản xuất hay thay đổi lại biện pháp kích
thích. Nhưng xét về lâu dài, đó có thể là hình thức tốn kém.
+ Cải tiến hay thay đổi sản phẩm hiện tại : cho phù hợp với những điều kiện
hay sở thích của địa phương. Công ty có thể gia tăng hiệu quả sử dụng sản phẩm, thay đổi
hình dáng, màu sắc của bao bì, tăng thêm các dịch vụ bổ trợ trước, trong và sau khi bán để
Marketing
mix
Thị trường
mục tiêu
Kênh
Phạm vi
Danh mục hàng
hoá
Điạ điểm
Dự trữ
Vận chuyển
tăng tính thích ứng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
– Quyết đinh bao bì : bao bì có thể là cách rẻ nhất, nhanh nhất và dễ nhất để thích ứng
một sản phẩm vào một thị trường. Bao bì là nhằm bảo vệ và khuyếch trương sản phẩm. Khi
thiết kế bao bì phải chú ý đến thị hiếu thẩm mỹ và phải thuận tiện cho việc vận chuyển và sử
dụng.
– Quyết định nhãn mác : chức năng quan trọng nhất của nhãn mác là để nhận biết sản
phẩm và người sở hữu nhãn hiệu đó. Do vậy, nhãn mác phải phù hợp với từng loại sản phẩm,
rõ ràng, dễ gây ấn tượng và phải tạo sự khác biệt với các nhãn mác của sản phẩm khác nhưng
tuân thủ theo pháp luật, phù hợp với quan niệm và thị hiếu của khách hàng.
b) Quyết định về giá xuất khẩu.
Đây là một trong những quyết định khó khăn nhất trong lĩnh vực hoạt động Marketing
xuất khẩu. Việc định giá xuất khẩu thường đối mặt với một số vấn đề như sau :
* Mối quan hệ giữa giá xuất nhập khẩu và giá nội địa.
– Giá xuất nhập khẩu cao hơn giá nội địa : mối quan hệ này được xác định trên cơ sở
chi phí ban đầu cho việc tổ chức xâm nhập thị trường nước ngoài tăng lên đáng kể, chi phí
phân phối, bán hàng có thể cao hơn so với thị trường nội địa do sự phức tạp của hệ thống
phân phối, thủ tục và chiết khấu thương mại cao.
– Định giá xuất khẩu ngang bằng với giá trong nước : phù hợp với công ty lần đầu tiên
tham gian xuất khẩu, chưa nắm đầy đủ các điều kiện ở thị trường nước ngoài.
– Định giá xuất khẩu thấp hơn giá trong nước : định giá xuất khẩu trong điều kiện giao
hàng FOB thấp hơn giá trong nước xuất phát từ những lý do sau:
+ Mức thu nhập thấp ở một số thị trường nước ngoài có thể đòi hỏi công ty định
giá thấp hơn để đạt được mục tiêu khối lượng.
+ Sự cạnh tranh ở thị trường nước ngoài quyết liệt buộc công ty phải định giá
thấp.
+ Công ty nhận thấy rằng thậm chí xuất khẩu với giá FOB thấp hơn giá nội địa
nhưng do các chi phí vận tải, thuế và các chi phí khác phát sinh cao nên sản phẩm được bán ở
nước ngoài với giá cao hơn.
+ Công ty có thể cho rằng những chi phí xuất khẩu thực tế thấp vì những chi
phí nghiên cứu và phát triển điều hành và một số chi phí khác được hạch toán vào sản phẩm
được bán ở thị trường trong nước.
* Những quyết định giá xuất khẩu :
Tìm ra những mức giá ở thị trường nước ngoài hợp lý là một nhiệm vụ của Marketing
xuất khẩu. Hơn nữa các công ty xuất khẩu cần phải định hướng thị trường trong những quyết
định giá và điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng. Dưới đây ta xem xét những quyết định
liên quan đến giá cả và những điều kiện bán cho những nhà nhập khẩu :
–
Quyết định về đồng tiền tính giá.
–
Định giá xuất khẩu thích ứng với điều kiện cơ sở giao hàng tương ứng.
–
Định giá xuất khẩu thích ứng với phương thức thanh toán
c) Quyết định phân phối xuất khẩu.
Để kết nối giữa công ty với khách hàng của mình trên thị trường quốc tế, công ty cần
nghiên cứu để đưa ra những chiến lược phân phối cho phù hợp với nguồn lực của mình.
* Chiến lược phân phối nước ngoài :
Đây là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu phân phối giữa các quốc gia
của công ty ở thị trường nước ngoài. Đối với chiến lược này, chỉ quan tâm đến lựa chọn đánh
giá và kiểm soát các thành viên kênh.
* Chiến lược phân phối quốc tế :
Là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu phân phối giữa các quốc gia của công
ty. Công ty cần lựa chọn và quản lý các thành viên kênh, đồng thời ra quyết định về nguồn
cung cấp, dự trữ và vận chuyển cùng với hệ thống kiểm soát hậu cần nhằm hỗ trợ đạt được
các mục tiêu của công ty.
* Chiến lược phân phối toàn cầu :
Là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được đồng thời các mục tiêu phân phối trên thị
trường toàn cầu và trên thị trường nước ngoài của công ty. Công ty cần phải có những quyết
định về nguồn cung cấp, dự trữ, vận chuyển cũng như kênh địa phương cho từng thị trường.
Ngoài ra công ty cần phát triển hệ thống phân phối đan chéo quốc gia và một tập hợp các hệ
thống phân phối nước ngoài để hỗ trợ đồng thời việc giành được mục tiêu của công ty.
Tùy theo khả năng của mình mà công ty cần lựa chọn một hoặc một số chiến lược phù
hợp và thiết lập một quy trình phân phối chung theo các bước sau :
– Thiết lập chính sách phân phối xuất khẩu
– Thiết lập các mục tiêu của kênh phân phối và các hạn chế của kênh phân phối.
– Xác lập hệ thống các kênh phân phối thế vị.
– Đánh giá kênh phân phối xuất khẩu.
– Lựa chọn các thành viên kênh.
– Quản trị các mối quan hệ kênh.
d) Quyết định xúc tiến thương mại trong Marketing xuất khẩu.
* Khái niệm :
Xúc tiến thương mại là một lĩnh vực hoạt động Marketing đặc thù và có chủ định của
công ty kinh doanh nhằm định hướng vào việc chào hàng, chiêu khách và xác định mội quan
hệ thuận lợi nhất giữa công ty và tập khách hàng tiềm năng trong điểm để triển khai có hiệu
quả chiến lược và các xúc tiến Marketing hỗn hợp của công ty kinh doanh.
* Các quyết định về xúc tiến :
Các quyết định xúc tiến có quan hệ lẫn nhau và gồm các hình thức sau:
– Bán hàng cá nhân : người bán hàng truyền đạt một cách trực diện đến khách hàng tiềm
năng.
– Quảng cáo : đó là các thông điệp bán hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng
với điều kiện người làm quảng cáo phải trả tiền.
– Xúc tiến bán : đó là tất cả các hoạt động bán hàng mang tính chất bổ xung và củng cố
việc bán hàng cá nhân và quảng cáo. Các hoạt động này thị trường không định kỳ và có thời
gian tồn tại tương đối ngắn. Các hình thức xúc tiến :
. Catalog cho nước ngoài.
. Hàng mẫu.
. Xuất bản phẩm về công ty hay tổ chức.
. Triển lãm và hội chợ.
. Các tài liệu khác liên quan.
– Quan hệ công chúng : là một quan hệ kinh doanh đặc thù nhằm đánh giá thái độ của
một nhóm liên quan nhận biết được các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích của nhóm này nhằm
hướng được sự hiểu biết và tin tưởng của họ đối với hoạt động kinh doanh của công ty.
1.2.5.Triển khai chiến lược
1.2.5.1) Ngân sách cho chiến lược Marketing xuất khẩu
Đây là yếu tố quan trọng mang tính quyết định, xác thực và khả năng thực thi chiến lược
Marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế.Chiến lược Marketing xuất khẩu được
xây dựng thì ngay từ bước đầu là các hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế của công ty
cũng đòi hỏi một lượng kinh phí không nhỏ.Tiếp đến, các chi phí phát sinh và chi phí cho
việc thực thi chiến lược., biến chiến lược trở thành hiện thực đối với hoạt động của công ty
kinh doanh quốc tế.
Vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng đầu tiên đối với mọi hoạt động của công ty kinh doanh.
Với công ty kinh doanh quốc tế muốn mở rộng kinh doanh ra thị trường quốc tế hoặc là
chiếm lĩnh được thị phần là cao, thắng lợi trong cạnh tranh…..Tất cả hoạt động này đều đòi
hỏi công ty phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Công ty kinh doanh quốc tế phảI dự
đoán được mức chi phí cho việc thực thi và triển khai chiến lược của mình. Từ đó công ty xác
định được kết quả của chiến lược và mức lợi nhuận đem lại có thể.
Việc thực hiện chiến lược marketing quốc tế cho công ty bao gồm nhiều công đoạn và ở
mỗi công đoạn lại cần các chi phí là khác nhau. Công ty kinh doanh quóc tế phải tính toán
thật kỹ lưỡng cho việc xác lập ngân quỹ sao cho phù hợp với tổng công đoạn nhằm đảm bảo
cho chiến lược marketing xuất khảu của công ty là khả thi và hiệu quả
1.2.5.2)Nguồn lực của công ty kinh doanh quốc tế
Tận dụng được lợi thế có nguồn lao động dồi dào, với giá lao động rẻ, các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đang chiếm ưu thế hơn so với các doanh nghiệp xuất
khẩu trong khu vực,. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động này không cao do chưa được đầu
tư đúng mức trong việc hướng nghiệp, đào tạo chuyên sâu…..Do vậy, dẫn đến năng suất lao
động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường thế giới.
Bên cạnh đó, trình độ quản lý yếu kém cũng dẫn đến chi phí cao và năng suất thấp nên
khó đáp ứng được việc giao hàng đúng hạn.
Hơn nữa, ngành dệu may của vn hiện nay cũng có trang bị các thiết bị tân tiến nhưng số
lượng các loại máy này chỉ chiếm một phần nhỏ khoảng 30-40% trong tổng thể dây chuyến
sản xuất.Thêm vào đó, khẩu thiết kế mẫu mã. tạo mẫu còn yếu kém nên chúng ta chủ yếu còn
may gia công theo mẫu đặt sẵn của nước ngoài.
Nói chung đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam , sự hiểu biết về quy trình ,
nội dung và cách thức quản trị chiến lược marketing nói riêng còn nhiều hạn chế.Khả năng
sắp xếp các quy trình quản trị chiến lược marketing xuất khẩu còn đơn giản và theo nhiều
chiều hướng khác nhau. Do vậy chưa đảm bảo tính nhất quán, doanh nghiệp chưa xác định
được mục tiêu chiến lược lâu dài mà mới chỉ chú trọng đến các mục tiêu ngắn hạn.Việc tổ
chức các hoạt động môi trường marketing quốc tế và hệ thống tổ chức thông tin marketing
mặc dù đã được các doanh nghiệp chú ý đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
1.2.5.3) Kế hoạch hành động của công ty
Sau khi thu thập thông tin về thị trường mục tiêu, các nhà quản trị của doanh nghiệp cần
phải phân tích, đánh giá và xây dựng một kễ hoạch mục tiêu. Kế hoạch marketing là biểu
hiện cụ thể nhất về sự linh hoạt của một doanh nghiệp bao gồm bốn yếu tố: sản phẩm, giá,
phân phối và xúc tiến.Nếu một kế hoạch có thể có khả năng thực hiện được thì cần xem xét
nên hoàn thiện điểm nào, để nó hoàn chỉnh trước khi đI vào thực hiện. Thông thường, việc
kiểm tra thường xuyên những thông tin ở những môi trường ổn định là rất cần thiết.Nó có thể
giúp doanh nghiệp tránh gặp phải những thay đổi bất thường, những rủi ro mà có thể ảnh
hưởng xấu đến kế hoạch marketing của doanh nghiệp .
Và mỗi một chu kỳ hoặc một giai đoan của quá trình sản xuất, các doanh nghiệp cần xây
dựng kế hoạch để có thể dự tính trong năm nay, công ty có thể đạt giá trị sản xuất là bao
nhiêu, đạt doanh thu và lợi nhuận cao hay thấp.Đến cuối kỳ hoạt động, công ty có thể so sánh
giữa giá trị thực tế hoạt động của công ty với mức kế hoạch đã đề ra từ đầu để từ đó tìm ra
những nguyên nhân khi không đạt đúng mức kế hoạch và đồng thời phát huy ngày cang cao
yếu tố đã giúp công ty vượt mức kế hoach.
1.2.6.Kiểm soát chiến lược
Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi các nhà quản trị công ty phảI tiến hành kiểm
tra, kiểm soát các hoat dộng marketing vì trong , quá trình triển khai kế hoạch marketing có
nhiều yếu tố phát sinh mà các nhà chiến lược marketing không thể lường trước được. Lãnh
đạo công ty đã tiến hành triển khai kế hoạch hàng năm thông qua các chỉ tiêu kinh tế;
-Phân tích doanh số bán để định lượng và đánh giá được doanh số tăng hay giảm so với
dự kiến, tìm nguyên nhân để có biện pháp
-Phân tích thị phần để biết được mức độ chiếm lĩnh thị trường của công ty là bao nhiêu,
tăng hay giảm và đang ở vị trí nào?
-Phân tích chi phí marketing để đảm bảo công ty không chi quá mức, theo dõi quyết định
chi phí cho các hoạt động đó có phù hợp với mục tiêu của công ty hay chưa.
Việc phân tích được các chỉ tiêu kinh tế trên là cơ sở cho các nhà quản trị chiến lược có
thể phân tích được khả năng sinh lời trên từng thị trường cụ thể
1.3.Hệ thống chỉ tiêu đánh giá
1. Tồng kim ngạch xuất khẩu được tính bằng tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu quy đổi ra
USD:
Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu:
Tổng kim ngạch năm thực hiện
K= *100%
Tổng kim ngạch năm trước
2. Chỉ tiêu lợi nhuận thực tế
P = Doanh số xuất khẩu – Giá vốn – Tổng chi phí
3. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận
P = *100%
Doanh số
4. Mức độ mở rộng thị trường được đánh giá qua:
*) Danh mục mặt hàng: tính bằng tỷ số mặt hàng doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu
– Khu vực thị trường: số thị trường đã và sẽ tiến hành xuất khẩu
*) Tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường:
Tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp
K= *100%
Tổng giá trị mặt hàng xuất khẩu của cả nước
*) Chỉ tiêu thời gian hoà vốn:
d
Xi =
P-V
*) Hiệu quả xuất nhập khẩu
HqXNK = TG nhập-TG xuất- TG bán ngoại tệ- TG mua ngoại tệ
( TG: tỷ giá)
Chi phí mua+ Phí+ Thuế (VND)
Tỷ giá xuất=
Tổng số ngoại tệ thu được
Doanh số bán lô hàng nhập(VND)
Tỷ giá nhập =
Tổng số ngoại tệ bỏ ra để mua lô hàng
*) Hiệu quả xuất khẩu:
HX = Tỷ giá mua ngoại tệ –Tỷ giá xuất
*) Doanh thu lãi xuất khẩu:
TX
DX =
CX
Trong đó:+ TX :thu nhập do xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được quy đổi ra VND theo tỷ giá
công bố của ngân hàng( sau khi trừ tổng chi phí)
+ CX: tổng chi phí cho xuất khẩu
Chương II: Thực trạng chiến lược marketing
xuất khẩu hàng may mặc của công ty
sản xuất – xuất nhập khẩu việt an
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty.
2.1.1. Giới thiệu sơ lược về công ty.
Tháng 4 năm 1993 công ty sản xuất – kinh doanh Trường An được thành lập trực thuộc
ban tài chính Quản trị trung ương, là công ty được góp vốn bởi các đơn vị : Tổng công ty
may Việt Tiến, Bộ công nghiệp nhẹ thành ủy Hà Nội, công ty nông thổ sản I, Ban tài chính
trung ương và Bộ Thủy sản.
Ngày 1-4-1994 do cơ cấu góp vốn của các công ty liên kết được xem xét và xác định lại
chủ yếu là của nhà nước và tổ chức toàn thể, công ty đã chuyển đổi và thành lập lại vẫn có
tên là công ty Trường An, là doanh nghiệp trực thuộc Ban tài chính quản trị trung ương.
Ngày 1-7-1995 do quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng, đa dạng hóa loại hình hoạt
động, đủ sức hoạt động kinh doanh độc lập. Ban Tài chính quản trị trung ương đã sát nhập
công ty Trường An vào Tổng công ty Hồ Tây sau khi trả lại vốn cho các đơn vị liên kết.
Ngày 4-12-1995 theo quyết định số 4299/QĐUB công ty đổi tên chính thức thành công ty
sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An trực thuộc Tổng công ty Hồ Tây.
Là công ty mới thành lập, bộ máy tổ chức và hoạt động kinh doanh bắt đầu hình thành
theo mô hình tự chủ và chịu trách nhiệm hạch toán độc lập. Từ năm 1996, công ty bắt đầu bắt
tay vào sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ đó đến nay công ty đã không ngừng phấn
đấu khắc phục mọi khó khăn, sáng tạo trong lao động, mỗi cá nhân đều hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao và tham gia tích cực các công việc của công ty nói riêng và Tổng công ty nói
chung.
Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An là một doanh nghiệp nhà nước, công ty hoạt
động trên cơ sở nguồn vốn được cấp, sử dụng có hiệu quả và bảo toàn phát triển vốn do Tổng
công ty giao nhằm duy trì sản xuất kinh doanh.
+ Tên hiện tại : Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
+ Tên giao dịch : VAPROMEXCO (Việt An Production Export – Import Company).
+ Địa chỉ : Số 239 – Đặng Tiến Đông – Đống Đa – Hà Nội.
+ Tel : 84-4-8572091.
+ Fax : 84-4-8572075.
+ AIC N0 : 001.1.37.3856 tại Ngân hàng Ngoại thơng 198 Trần Quang Khải – Hà Nội.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực kinh doanh sản xuất chủ yếu.
a) Chức năng của công ty.
– Sản xuất, xuất nhập cung cấp những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thiết bị kỹ thuật thích
hợp cùng với các đơn vị thành viên.
– Nhận xuất nhập khẩu ủy thác các sản phẩm may mặc đáp ứng nhu cầu trong và ngoài
nước.
b) Nhiệm vụ của công ty.
– Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hàng năm phù hợp với nhiệm vụ của Tổng công
ty giao và nhu cầu chung của thị trường.
– Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, phương thức quản lý tiêu thụ từ chuyển nhượng tài
sản sử dụng để tái đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ của công ty.
– Tự tạo nguồn vốn, bảo toàn vốn của công ty và sản xuất có hiệu quả từ nguồn vốn đó.
– Thực hiện các nghĩa vụ với người lao động theo quy định của Bộ luật lao động, Luật
Công đoàn.
– Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, báo cáo định kỳ theo quy định của Tổng
công ty và công ty tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của nó.
– Tuân thủ và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
c) Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu.
– Sản xuất, gia công hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc.
– Kinh doanh hàng may mặc, sản phẩm chủ yếu bao gồm : áo jacket các loại, áo sơ
mi,quần áo lao động….
2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất kinh doanh của công ty Việt An.
a) Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Việt An.
b) Ban quản lý nhân sự chung.
Với sơ đồ bộ máy quản lý này, công ty Việt An đã tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, tận dụng được hết khả năng nguồn nhân lực sẵn có của mình.
Giám đốc công ty có vai trò nhất trong toàn công ty, là người chỉ đạo chung, có trách
nhiệm cá nhân tước các quyết định tổ chức, sản xuất và phân công nhiệm vụ và quyền hạn
cho các phòng ban. Trong ban giám đốc công ty, ngoài Giám đốc có hai phó giám đốc là :
phó giám đốc kinh doanh và phó giám đốc sản xuất. Hai phó giám đốc này có nhiệm vụ quản
lý và điều hành từng lĩnh vực cụ thể là sản xuất và kinh doanh của công ty, giúp giám đốc
quản lý sâu từng bộ phận nhân sự, sau đó có báo cáo thường xuyên tình hình hoạt động cụ thể
của lĩnh vực mình phụ trách cho giám đốc công ty. Ngoài ra, công ty còn có một số các
phòng ban khác nhau, đảm nhiệm một nhiệm vụ cụ thể như phòng tổ chức hành chính và lao
động tiền lương; phòng tài chính kế toán; phòng kế hoạch tổng hợp; phòng kỹ thuật; phòng
xuất – nhập khẩu; xưởng may. Các phòng ban này đều đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
góp phần tạo sự phát triển chung cho công ty trong thời gian qua.
Xưởng may I và II đều có cơ cấu tổ chức giống nhau. Mỗi xưởng đều có bộ phận kỹ thuật
xưởng, bộ phận đóng gói, tổ cắt, tổ may. Có hai xởng có trách nhiệm tiến hành sản xuất theo
kế hoạch được giao một cách độc lập, có chức năng riêng nhưng vẫn có quan hệ mật thiết với
nhau. Nguyên vật liệu chính được giao cho tổ cắt, cắt thành bán thành phẩm dựa vào định
mức kỹ thuật do phòng kỹ thuật của công ty thiết kế.
Mỗi tổ may nhận bán thành phẩm cắt và đảm nhiệm may cho đến khi thành sản phẩm.
Việc phân tổ may giúp cho Giám đốc. phó giám đốc phụ trách sản xuất theo dõi và quản lý dễ
Giám
đốc
Phòng
kinh
doanh
Phó giám
đốc kinh
doanh
Phòng kế
toán tài
chính
Phòng tổ
chức
hành
Phòng KT
tổng hợp
Phó
giám
đốc sản
Bảo
vệ
Y
tế
Phòng
kỹ
thuật
Xưởn
g
may
Xưởn
g
may
Nhà
kho
Nhà
kho
Phòn
g
XNK