KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MARKETING
TRONG KINH DOANH XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU ARTEXPORT
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
1
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa, nền kinh tế
Việt nam đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện, hàng hoá trên thị trường trong nước ngày càng
đa dạng, phong phú đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang thị
trường thế giới. Để nhanh chóng phát triển nền kinh tế hội nhập vào thị
trường thế giới và khu vực. Bên cạnh những mặt lợi của sự mở cửa nền kinh
tế thì chúng ta phải đối mặt với không ít những khó khăn từ bên ngoài khi
hàng hoá của họ xâm nhập vào thị trường nước ta dẫn tới việc cạnh tranh
trên thị trường hàng hoá trở nên gay gắt. Chính trong điều kiện đó, vấn đề
đặt ra cho các doanh nghiệp là làm sao để vượt lên chiếm ưu thế trên thị
trường và kinh doanh có hiệu quả. Marketing ngày càng trở nên quan trọng
đối với doanh nghiệp, nó đã góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp
đem đến cho doanh nghiệp sự năng động, linh hoạt trong kinh doanh và khả
năng tiếp cận thị trường. Marketing đã được các doanh nghiệp xem như là
công cụ để chiến thắng trong cạnh tranh.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ở nước ta hiện nay chưa phát
triển mạnh chủ yếu là làm thủ công. Hầu như chứa có trang bị máy móc thiết
bị, nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn ở qui mô nhỏ, thêm vào đó
chúng ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường nên còn có
nhiều bỡ ngỡ về mẫu mã, phẩm chất, giá cả.
Công ty ARTEXPORT là công ty thực hiện chức năng xuất nhập khẩu
mặt hàng thủ công mỹ nghệ và để thích nghi với cơ chế thị trường. Từ tổ
chức cán bộ, chiến lược, chiến thuật sản xuất kinh doanh tới nghiên cứu thị
trường, mẫu mã sản phẩm, giá cả tuyên truyền quảng cáo, công nghệ sản
xuất. Đây là vấn đề cấp bách mà các doanh nghiệp trong đó có
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
2
ARTEXPORT cần giải đáp ngay. Những vấn đề đó còn phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Với nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển hoạt động Marketing
trong kinh doanh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty xuất
nhập khẩu ARTEXPORT ” để làm đề tài nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên
cứu và đánh giá hoạt động Marketing xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở
công ty và vận dụng tư duy kinh tế, cơ chế kinh doanh mới đối chiếu với
nhận thức trong quá trình học tập và những tài liệu tham khảo. Chỉ ra những
mặt ưu điểm, nhược điểm, mâu thuẫn tìm nguyên nhân dẫn đến kết quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ARTEXPORT. Từ đó rút
ra bài học thành công đồng thời cũng đề xuất ra những biện pháp góp phần
bổ sung, hoàn thiện hoạt động Marketing xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ ở công ty.
Xin trân trọng cám ơn sự chỉ dạy tận tình của các thầy cô giáo. Thầy
giáo Th.s Vũ Minh Đức_ giảng viên Khoa Marketing Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân và các cán bộ phòng xuất nhập khẩu 11 công ty xuất nhập khẩu
thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
3
Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN MARKETING- XUẤT KHẨU
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MARKETING
1. Sự ra đời và phát triển của Marketing
Các nhà sản xuất, kinh doanh luôn có mong muốn là sản phẩm của họ
thoả mẵn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Để đạt được mục tiêu đó họ
luôn tiến hành các thử nghiệm khác nhau và thử nghiệm về Marketing đã
đem lại sự thành công cho các nhà sản xuất. Như vậy Marketinh được ra đời
và áp dụng đầu tiên trong lĩnh vực bán hàng.
Hoạt động Marketing đã xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ 20 và
được các nhà kinh doanh của Mỹ, Nhật… áp dụng bằng các biện pháp rất
mới mẻ như: Phục vụ tối đa theo yêu cầu của khách hàng, sẵn sàng đổi lại
những sản phẩm mà khách hàng không vừa ý, bán hàng kèm quà tặng, mua
nhiều có thưởng, có chiết khấu, giảm giá… Các biện pháp này tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp bán hàng nhanh hơn với khối lượng lớn hơn và thu
được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên các phương pháp trên mới chỉ được thực
hiện một cách đơn lẻ và chỉ là những hoạt động mang tính bề nổi trên thị
trường. Dần dần do sự phát triển của sản xuất, qui mô và cơ cấu thị trường,
các hoạt động Marketing nói trên không còn phù hợp với qui mô sản xuất và
thị trường ngày càng lớn, và luôn thay đổi. Các nhà kinh doanh đã liên kết
cùng nhau để tạo ra sự thống nhất giữa cung ứng hàng hoá và nhu cầu tiêu
dùng. Marketing trở thành một hoạt động xuyên suốt từ khâu sản xuất đến
tiêu dùng.
Giai đoạn từ đầu thế kỉ 20 đến chiến tranh thế giới lần 2 hoạt động
Marketing được coi là Marketing truyền thống.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
4
Marketing truyền thống có đặc trưng là: Coi thị trường và lưu thông là
khau quan trọng của quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tiên của Marketing
truyền thống là “ Làm thị trường” rồi sau đó mới tổ chức quá trình phân phối
và cung ứng hàng hoá nhanh nhất.
Lúc này các nhà kinh doanh đã nhận rõ được vai trò của người mua.
Tức là người mua giữ vai trò quyết định trên thị trường. Nhưng có một đặc
trưng nổi bật nhất của Marketing giai đoạn này là hoạt động theo định hướng
sản xuất. Nghĩa là bán cái mà mình có chứ không phải cái mà thị trường cần.
Marketing truỳen thống là nền tảng cho sự phát triển của Marketing
hiện đại sau này.
Vào thập niên 30 khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, cạnh tranh diễn ra
gay gắt. Tình hình kinh tế thế giới có nhiều thay đổi. Cạnh tranh tự do giữa
các công ty để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ đã phá vỡ cân đối giữa cung
ứng hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-
1932 là một minh chứng cho sự hạn chế của loại hình Marketing truyền
thống. Chính vì vậy Marketing hiện đại ra đời. Sự có mặt của Marketing
hiện đại đã góp phần không nhỏ vào việc khăc phục tình trạng khủng hoảng
thừa và thúc đẩy sản xuất khoa học kỹ thuật phát triển.
*
Đặc trưng của Marketing hiện đại: Thị trường và người mua có vai
trò quyết định, nhu cầu là mục tiêu của sản xuất và thoả mãn nhu cầu là yếu
tố quyết định của quá trình sản xuất.
Việc làm đầu tiên của Marketing hiện đại là phát hiện ra nhu cầu thị
trường (nắm bắt nhu cầu) sau đó rồi đếnd việc tổ chức tất cả các khâu khác
của quá trình tái sản xuất, như sản xuất phân phối để có được sự cung ứng
nhanh nhất, nhiều nhất hàng hoá ra thị trường nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu.
Khẩu hiệu của Marketing hiện đại lúc này là “bán những cái thị trường
cần chứ không phải cái mà ta sẵn có”
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
5
Marketing hiện đại không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại mà đã lan rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và trở thành
một hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển của các công ty.
2. Marketing và vải trò của nó trong các doanh nghiệp
2.1. Định nghĩa Marketing
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về Marketing mà cũng chưa có ai đưa
nó về được một định nghĩa thống nhất. Marketing theo nghĩa đen “ là làm thị
trường” hay là hoạt động bán hàng. Tuy nhiên với ý nghĩa như vậy nó vẫn
chưa phản ánh đầy đủ bản chất và chức năng của Marketing. Có thể nêu ra
một số định nghĩa tiêu biểu về Marketing.
*
Định nghĩa của học viện HAMTION (Mỹ)
Marketing nghĩa là hoạt động kinh tế trong đó hàng hoá được dưa ra từ
người sản xuất đến người tiêu dùng.
*
Định nghĩa của Uỷ ban hiệp hội Marketing Mỹ
Marketing là việc tiến hành các hoạt đông kinh doanh có liên quan trức
tiếp đến dòng vận chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người
tiêu dùng.
*
Định nghĩa của PHKOTLER (Mỹ)
Marketing là hoạt động của con người hướng tới sự thoả mãn nhu cầu
và ước muốn thông qua trao đổi.
*
Định nghĩa của British of Marketing (Anh)
Marketing là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn
bộ các hoạt dộng kinh doanh từ việc phát triển ra và biến sức mua của người
tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể đến việc đưa hàng
hoá đó đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm thu được lợi nhuận như mong
muốn.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
6
Từ những định nghĩa trên, có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản của
Marketing như sau:
Marketing là tất cả các hình thức và biện pháp, những nghệ thuật quản
lý kinh doanh toàn diện của công ty mà nội dung của nó gồm những việc
sau;
– Phát hiện ra nhu cầu xã hội về một mặt hàng nào đó và biến nhu cầu
đó thành nhu cầu thực tế.
– Tổ chức sản xuất ra hàng hoá phù hợp với nhu cầu.
– Tổ chức cung ứng hàng hoá một cách nhanh nhất ra thị trường.
– ứng sử linh hoạt với mọi biến động của thị trường để bán được nhiều
hàng hoá nhất và thoả mãn tôí đa nhu cầu và thu được lợi nhuận cao nhất.
Nhìn chung, Marketing có nhiều nội dung phong phú, mối một định
nghĩa đều nhấn mạnh nội dung cơ bản của Marketing là nghiên cứu thị
trường để đưa ra các biẹn pháp nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về một loại
hàng hoá hay dịch vụ nào đó.
2.2. Vai trò của Marketing trong các doanh nghiệp
Khi mới ra đời, Marketing chỉ là một khái niệm đơn giản giới hạn trong
lĩnh vực thương mại. Nó chỉ bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp nhằm
tiêu thụ những hàng hoá và dịch vụ đã có sẵn nhằm thu đưọc lợi nhuận. Việc
áp dụng các biện pháp Marketing đã tạo điều kiện kích thích sản xuất hàng
hoá phát triển. Với những tính ưu việt của nó Marketing không chỉ phát huy
trong lĩnh vực thương mại mà ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các
lĩnh vực phi thương mại khác.
Marketing có vai trò đặcbiệt quan trọng trong quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp. Marketing làm cho khách hàng và người sản xuất xích lại gần
nhau hơn. Ngoài ra, nó còn có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Nhờ
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
7
Marketing mà doanh nghiệp có những thông tin phản hồi từ phía khách
hàng, để rồi có sự thay đổi và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày
nay, Marketing là một trong những công cụ hữu hiệu giúp cho doanh nghiệp
có được vị thế trên thương trường.
Với các lợi thế trên Mar keting đã mang lại những thắng lợi huy hoàng
cho nhiều doanh nghiệp . Nó đã trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh
rất hiệu quả.
3. Những chính sách của Marketing-Mix
Sau khi quyết định đưa sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp cần xây
dựng một hệ thống Marketing-mix để thực hiện nó. Hệ thống Marketing-mix
là sự kết hợp hài hoà của 4 chính sách cấu thành chủ yếu đó là sản phẩm, giá
cả, phân phối và giao tiếp khuyếch trương, xúc tiến bán.
3.1. Chính sách về sản phẩm
sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Mar-mix.
Chính sách sản phẩm là nhân tốa quyết định của chính sách kinh doanh cũng
như chính sách Mar-mix, bởi vì công ty chỉ tồn tại và phát triển thông qua
lượng sản phẩm hay dịch vụ được cung ứng.
Hàng hoá là tất cả những cái gì có thể thoả mãn nhu cầu hay mong
muốn và được chào bán trên thị trường voứi mục đích thu hút sự chú ý, mua,
sử dụng hay tiêu dùng. Đó có thể là những vật hữu hình, dịch vụ, sức lao
động, đất đai, tác phẩm nghệ thuật.
Xét từ góc độ Marketing, mọi sản phẩm, hàng hoá đèu phải qua một
chu kỳ sống gồm 4 giai đoạn đó là:
– Giai đoạn một: Giai đoạn tung sản phẩm ra thị trường
– Giai đoạn hai: Giai đoạn sản phẩm tăng trưởng.
– Giai đoạn ba: Giai đoạn sản phẩm trưởng thành, bão hoà
– Giai đoạn bốn: Giai đoạn sản phẩm suy thoái
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
8
Chu kỳ sống của sản phẩm là quãng thời gian kể từ lúc sản phẩm được
tung ra thị trường cho đến lúc nó biến mất.
Các doanh nghiệp thường phải nghiên cứu chu kỳ đời sô9ngs của sản
phẩm nhằm mục đích thấy được các đặc trưng của mỗi giai đoạn trong một
chu kỳ, từ đó có những giải pháp Marketing tương ứng phù hợp nhằm làm
cho một sản phẩm ít nhất là vượt qua tất cả các giai đoạn của một chu kỳ
sống nếu tốt hơn nữa thì lại tiếp tục chu kỳ tiếp theo.
3.2. Chính sách giá cả
Giá cả hàng hoá là lượng tiền mà người tiêu dùng bỏ ra để chi trả một
loại hàng hoá nào đó, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giá
đóng một vai trò rất lớn vì nó là một bộ phận cấu thành Mar-mix và là công
cụ cạnh tranh đắc lực. Đối với người tiêu dùng thì giá cả có ảnh hưởng rất
lớn trong quá trình mua hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, việc định giá bán phải
bồi hoàn đủ chi phí, phải đảm bảo mức lãi và được người tiêu dùng chấp
nhận trong mọi điều kiện của thị trường. Dựa vào những căn cứ yêu cầu
khác nhau về quá trình hình thành giá cả để xác lập ra những giá khác nhau
ban đầu của một loại sản phẩm dựa trên căn cứ sau:
+ Dựa vào pháp luật-chính sách quản lý giá của Nhà nước
Thông thường nhà nước quản lý giá trong điều kiện kinh tế thị trường
thông qua hai hình thức: quản lý trực tiếp thông qua đặt giá trần giá sàn và
quản lý gián tiếp bằng cách Nhà nước tìm phương hướng tác động vào quan
hệ cung cầu trên thị trường từ đó điều chỉnh giá cho nền kinh tế.
+ Dựa vào đặc tính của sản phẩm trên hai yếu tố đó là : chu kỳ sống và
chi phí sản xuất.
+ Dựa vào những mục tiêu của doanh nghiệp như mục tiêu doanh số
bán, lợi nhuận,mục tiêu chiếm lĩnh thị trường…
+ Dựa vào nhu cầu thị trường trong tương lai
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
9
+ Dựa vào khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường
Việc xác định giá cả cho một loại hàng hoá rất quan trọng, do đó nó
cũng hết sức phức tạp khó khăn. Thông thường nó là một quá trình gồm các
giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Công ty phải các định mục tiêu hay mục tiêu Marketing
của mình một cách kỹ càng như: Mục tiêu là bảo đảm sống sót, tăng tối đa
lợi nhuận trước mắt, giành thị phần hay chất lượng hàng hoá.
Giai đoạn 2: Công ty cần phải tính toán xem tổng chi phí của mình
thay đổi như thế nào khi khối lượng sản phẩm khác nhau ra đời.
Giai đoạn 3: Công ty xây dựng cho mình một đường càu bằng đồ thị
thể hiện số lượng hàng hoá chắc chắn sẽ bán được trên thị trường trong một
khoảng thời gian cụ thể theo mức giá khác nhau. Nhu cầu thị trường càng
không co giãn thì giá cả do công ty đặt ra càng cao.
Giai đoạn 4: Công ty nghiên cứu giá cả của các đối thủ cạnh tranh
để sử dụng chúng làm căn cứ khi xác định vị trí giá cả cho hàng hoá của
mình.
Giai đoạn 5: Công ty lựa chọn cho mình một trong những phương
pháp hình thành giá sau:
– Chi phí bình quân cộng lãi
– phân tích điểm hoà vốn và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu
– Xác định giá căn cứ vào giá trị cảm nhận được của hàng hoá.
– Xác định giá căn cứ vào mức giá hiện hành và xác định trên cơ sở
thầu kín.
Công ty quyết định giá cuối cùng cho hàng hoá cần lưu ý đến sự chấp
nhận về mặt tâm lý đầy đủ nhất, đối với giá đó và nhất thiết phải kiểm tra
xem giá đó có phù hợp với những mục tiêu của chính sachs giá cả mà công
ty thi hành không và những người phân phối và các nhà kinh doanh, các
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
10
nhân viên bán hàng của công ty, các đối thủ cạnh tranh, những cung ứng và
các cơ quan Nhà nước có sẵn sàng chấp nhận không.
3.3. Chính sách lựa chọn kênh phân phối
Kênh phân phối là tập hợp các công ty hay cá nhân mà qua đó người
bán thực hiện việc chuyển giao cho người tiêu dùng quyền sử dụng hay
quyền sở hữu hàng hoá hay dịch vụ cụ thể.
Kenh phân phối là con đường hàng hoá được lưu thông từ các nhà sản
xuất đến người tiêu dùng. Nhờ nó mà khắc phục được những trở ngại về thời
gian, địa điểm và quyền sở hữu hàng hoá và dịch vụ với những người muốn
sử dụng chúng. Các thành viên của kênh phân phối làm một số chức năng:
1. Nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi.
2. Kích thích tiêu thụ, soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng
hoá.
3. Thiết lập các mối quan hệ, tạo dựng và duy trì những mối quan hệ
với những người mua tiềm ẩn.
4. Hoàn thiện hàng hoá, làm cho hàng hoá đáp ứng được những yêu cầu
của người mua. Việc này liên quan đến các hoạt động sản xuất, phân loại lắp
ráp và đóng gói.
5. Tiến hành thương lượng, những việc thoả thuận với nhau về giá cả
và những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền
sở hữu hay quyền sử dụng.
6. Tổ chức lưu thông hàng hoá, vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng
hoá.
7. Đảm bảo kinh phí- tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi
phí hoạt động của kênh.
8. Chấp nhận rủi ro, gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
11
*
Các thành viên trong kênh phân phối Marketing bao gồm:
– Người cung ứng (doanh nghiệp sản xuất, người xuất khẩu …) là người
bắt đầu của kênh có nhiệm vụ cấp hàng hoá cho lưu thông.
– Người trung gian ( gồm các phần tử trung gian như các đại lý cấp
1,2… những người bán buôn, người bán lẻ…) là những người trung gian giữa
nhà sản xuất và người tiêu dùng có nhiệm vụ làm cho hàng hoá lưu thông
thuận lợi.
– Hệ thống kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải, cửa hàng, hệ thống
thông tin thị trường, các dịch vụ khác tham gia vào các kênh phân phối.
– Người tiêu dùng là khâu cuối trong kênh.
Trong kênh phân phối số lượng các trung gian nhiều hay ít tuỳ thuộc
vào vị trí, thị phần, khả năng tài chín của công ty cũng như uy tín của công
ty trên thị trường. Trong thực tế thường có các loại kênh phân phối sau:
+ Kênh cấp không: Nhà sản xuất Người tiêu dùng
Nhà xuất nhập khẩu
+ Kênh cấp 1:
Nhà sản xuất
Nhà xuất nhập khẩu Người bán lẻ Người tiêu
dùng
+ kênh cấp 2:
Kênh cấp không (Marketing trực tiếp) gồm nhà sản xuất, nhà kinh
doanh bán hàng lưu động, bán hàng qua bưu điện và bán hàng qua các cửa
hàng của nhà sản xuất.
Kênh cấp 1: Bao gồm một người trung gian. Trên thị trường tiêu
dùng, người trung gian này là người bán lẻ, còn trên thị trường hàng tư liệu
sản xuất thì người trung gian là đại lý tiêu thụ hay người môi giới.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
12
Kênh cấp 2: Bao gồm 2 trung gian. Trên các thị trường người tiêu
dùng những người trung gian này thường là những người bán lẻ và bán sỉ
người tiêu dùng sẽ mua hàng từ họ, còn trên thị trường tư liệu sản xuất thì có
thể là người phân phối hay đại lý công nghiệp.
Kênh cấp 3: Bao gồm nhiều người trung gian. Trong kênh này
thường có người bán sỉ nhỏ trong trường hợp này thì người tiêu dùng mua
sản phẩm từ người bán lẻ và bán sỉ nhỏ còn người bán sỉ (đại lý cấp 1)
thường không bán hàng cho người tiêu dùng cuối cùng.
Trong thực tế còn tồn tại những kênh nhiều cấp hơn. Theo quan điểm
của các nhà sản xuất thì kênh càng nhiều cấp thì càng khó kiểm soát ở mỗi
khâu phân phối, cần sử dụng bao nhiêu trung gian là tuỳ thộc vào chiến lược
phân phối. Có các loại chiến lược phân phối sau đây:
+ Chiến lược phân phối rộng rãi: Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược
này khi muốn mở rộng thị phần và làm cho người tiêu dùng biết đến sản
phẩm của mình.
+ Chiến lược phân phối rộng quyền: Các doanh nghiệp áp dụng chiến
lược này khi đã có uy tín trên thị trường do vậy họ muốn lựa chọn người
phân phối có năng lực nhất. Với các mặt hàng đặc biệt thường áp dụng chiến
lược này.
+ Chiến lược phân phối chọn lọc: Trường hợp này các doanh nghiệp
kết hợp hài hoà hai chiến lược trên.
3.4. Chiến lược giao tiếp khuyếch trương
Mục đích của chiến lược này là giới thiệu và truyền tin về số lượng
cung để cho cung cầu gặp nhau nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá thoả
mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và để đạt hiệu qủa kinh doanh cao
nhất, nó thuộc về giai đoạn thứ ba của phương pháp tiến hành hoạt động
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
13
Marketing và là giai đoạn cuối cùng của hoạt động này. Về cơ bản thì chính
sách giao tiếp khuyếch trương bao gồm bốn yếu tố sau:
– Quảng cáo
– Xúc tiến bán hàng
– Bán hàng cá nhân
– Quan hệ với quần chúng (tuyên truyền)
Đối với một doanh nghiệp thì vấn đề đặt ra là cần phải lựa chọn yếu tố
nào trong 4 yếu tố đó để giới thiệu và truyền tin về sản phẩm của mình. Để
làm điều đó thường các doanh nghiệp dựa vào các phân tích sau:
+ Phân tích bản chất, đặc trưng của mỗi yếu tố thuộc về chính sách giao
tiếp khuyếch trương.
+ Phân tích loại hình sản phẩm, loại hình thị trường , thông thường
người ta chia làm hai loại sản phẩm là hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng. Vị trí của 4 yếu tố nêu trên nó được sắp xếp một cách khác nhau theo
hai loại thị trường đó là vì những đặc trưng của thị trường. Ví dụ như thứ tự
của các yếu tố trong chính sách này như sau:
Với hàng tiêu dùng: 1. Quảng cáo 2. Xúc tiến bán 3. Bán hàng
cá nhân 4. Tuyên truyền.
Với hàng tư liệu sản xuất 1. Bán hàng cá nhân 2. Xúc tiến bán
3. Quảng cáo 4. Tuyên truyền.
+ Phân tích các pha của chu kì sống sản phẩm
Với pha 1: Nếu mạnh về biện pháp quảng cáo, xúc tiến bán chỉ có ý
nghĩa kích thích tức thời.
Với pha 2: Quảng cáo vốn là quan trọng, xúc tiến bán không có vai trò
lớn lắm.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
14
Với pha 3: nhấn mạnh đến những biện pháp xúc tiến bán hàng, quảng
cáo lúc này chỉ có ý nghĩa nhắc nhở và làm cho người ta lưu tâm đến nhã
hiệu sản phẩm.
Với pha 4: Xúc tiến bán không có ý nghĩa, chỉ có thể quảng cáo ở một
chừng mực nhất định nào đó đực biệt trường hợp sắp phải rút ra khỏi thị
trường.
Mục tieu của các doanh nghiệp là mong muốn bán được nhiều hàng hoá
và thu lợi nhuận tối đa do vậy hoạt động Marketing là không thể thiếu được
trong mỗi doanh nghiệp. Việc kết hợp các chính sách như thế nào cho có
hiệu quả đó mới là điều mà các doanh nghiệp cần quan tâm.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA MARKETING XUẤT KHẨU
Nhà kinh tế học ĐRicardo đã đưa ra qui luật lợi thế tương đối. Qui luật
được phát biểu như sau: “nếu một quốc gia có hiệu quả thấp trong sản
xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào
thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình”
Theo qui luật này thì có nghĩa là khi tham gia vào thương mại quốc tế
thì những quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất hàng hoá sẽ tiến hành
chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng là bất lợi nhất.
Để sản xuất ra một mặt hàng nhiều hơn, nền kinh tế phải hy sinh một
phần việc sản xuất các mặt hàng khác. Một quốc gia nếu biết khéo léo lựa
chọn và kết hợp giữa ưu thế của quốc gia mình với quốc gia khác, thì sẽ đạt
được hiệu quả tối đa trên cơ sở nguồn lực hạn chế, mà trước đó nếu không
tham gia vào thương mại quốc tế thì họ không có được. Đối với một nước
mà việc sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ là không hiệu quả bằng các
nước khacs, nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn thu được lợi ích thậm chí
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
15
lợi ích cao hơn các nước khác, nếu nước đó chuyên môn hoá sản xuất và
xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng tương đối đắt và phải
dùng đến nguồn lực khan hiếm.
Từ đây chúng ta thấy rằng do có sự chuyên môn hoá trong sản xuất,
chắc chắn sẽ có sự dư thừa và thiếu hụt các loại sản phẩm khác nhau trong
mỗi nước. Như vậy cấn có sự trao đổi hàng hoá giữa các nước và hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu chính là cầu nối cho việc buôn bán trao đổi này.
1. Quan điểm về Marketing xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu
Kinh doanh xuất nhập khẩu là một lĩnh vực đang được sự quan tâm đặc
biệt của các cấp, các ngành và Chính phủ.
2. Đặc điểm của Marketing xuất khẩu
Về cơ bản thì Marketing được xuát phát từ nhu cầu tiêu dùng. Do vậy
Marketing đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong mỗi lĩnh
vực thì Marketing lại có những đặc thù riêng. Do vậy Marketing xuất khẩu
có những đặc thù riêng của nó:
– Marketing xuất khẩu là làm thích ứng sản phẩm của mình trên các thị
trường , tạo được ưu thế cạnh tranh đối với sản phẩm khác.
Marketing xuất khẩu không chỉ là làm Marketing với một mặt hàng
mà đa dạng hoá mặt hàng của nhiều nhà sản xuất khác trong nước ở những
thị trường xuất khẩu khác nhau.
– Marketing xuất khẩu mang tính chất và đặc điểm giống với Marketing
công nghiệp. Bởi vì khách hàng của nhà xuất khẩu chủ yếu là các tổ chức,
các doanh nghiệp bán lại, người bán buôn.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều hình thức xuất khẩu khác
nhau tuỳ thuộc vào mức độ tham gia vào thị trường hình thức xuất khẩu
mưcs độ hoạt động Marketing sẽ khác nhau.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
16
a. Trường hợp xuất khẩu trực tiếp:
Người xuất khẩu cần quan tâm đến thị trường mua (nhập khẩu ) hàng
hoá đó. Họ cần tìm hiểu nhu cầu thị trường qua các đối tác và tìm kiếm
những đối tác trên thị trường mới. Hầu hết các nhà sản xuất, chỉ sử dụng các
trung gian phân phối trong những điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ
mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng thì họ thích sử dụng hình thức
xuất khẩu trực tiếp. Ưu điểm của trường hợp này là giảm bớt được chi phí
trung gian, có liên hệ trực tiếp với khách hàng, nhu cầu thị trường và tình
hình bán hàng, có thể thay đổi nhanh chóng mẫu mã sản phẩm, điều kiện bán
hàng trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên với hình thức này mức độ rủi ro
có thể tăng lên.
b. Trường hợp xuất khẩu gián tiếp (uỷ thác xuất khẩu )
Hình thức này là các doanh nghiệp thông qua dịch vụ của tổ chức độc
lập đặt tại nước ngoài để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình. Ưu điểm
cơ bản của hình thức này là ít phải đầu tư và không phải triển khai lực lượng
bán hàng ở nước ngoài. Tuy vậy, hình thức này làm giảm lợi nhuận vì cẩn có
nhiều kênh phân phối và doanh nghiệp không thể kiểm soát hết nhu cầu
khách hàng.
Theo định nghĩa Marketing, vấn đề trung tâm của Marketing là thoả
mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Chương trình Marketing lập
kế hoạch và kết hợp các yếu tố của Marketing-mix phải thể hiện những cací
mà người tiêu dùng quan tâm đến và thực sự cần thiết đpối với họ. Thực
chất dó của công việc là khả năng thích nghi nhanh chóng với tình hình thị
trường và quan hệ cung cầu, tình hình cạnh tranh.
Nhiệm vụ của người quản lý Marketing xuất khẩu là hệ thống hoá và
thi hành chính sách Marketing nhằm làm cho hàng hoá thích nghi với môi
trường và đạt được sự hoàn thiện trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
17
Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa thị trường trong nước và quốc tế.
Nhìn chung các phương pháp cơ bản của Marketing có thể áp dụng và thích
hợp với nhiều thị trường và các khái niệm cơ sở của Marketing vẫn đúng
cho cả trường hợp ở nội địa và nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình vận
dụng cần tính đến yếu tố đặc thù ở mỗi nước như tập quán thương mại, điều
kiện chính trị, pháp lý… Marketing xuất khẩu thực ra là việc vận dụng kinh
nghiệm quản lý Marketing trong nước vào các môi trường kinh doanh khác.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên thì người làm Marketinbg xuất khẩu
cần chú ý là sản phẩm bị chi phối bởi các nước chủ nhà. Sự ảnh hưởng bởi
các chính sách bảo hộ mậu dịch và hàng rào thuế quan của nước nhập khẩu
không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ở nước nhập
khẩu bởi vì việc nghiên cứu thị trường ở các thị trường đó là rất khó khăn so
với thị trường trong nước. Mặt khác người xuất khẩu phải quan tâm đến mối
quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường khu vực, thế giới. Hiện tại,
trên thị trường đang có xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá, do vậy người
xuất khẩu cần quan tâm đến sự khác biệt, sự tương đồng giữa thị trường nội
địa và thị trường quốc tế.
3. Những định hướng của Marketing xuất khẩu
Xuất khẩu bao giờ cũng phức tạp hơn nhiều trao đổi hàng hoá và dịch
vụ trong nước vì có những ràng buộc quốc tế, sự khác biệt về đồng tiền
thanh toán , chính sách luật lệ và đặc biệt là sự thiếu hiểu biết lẫn nhau… là
những trở ngại lớn cho xuất nhập khẩu. Chính vì thế để tiến hành công việc
một cách thuận tiện có hiệu quả thì công tác chuẩn bị cần hết sức thận trọng
và chu đáo. Hiệu quả của giao dịch lúc này phụ thuộc phần lớn ở công tác
chuẩn bị. Công việc này bao gồm: Nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lập
phương án giao dịch và tổ chức thực hiện.
3.1. Nghiên cứu thị trường
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
18
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau,
Thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Các
nhân tố này có thể mang tính vĩ mô và vi mô. Có trường hợp được thể hiện
một cách rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn khó nắm bắt đối với
nhà kinh doanh nước ngoài. Việc định dạng nhân tố này cho phép doanh
nghiệp xác định rõ những nội dung cần tiến hành nghiên cứu trên thị trường
quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập và
các chính sách Marketing khác. Một cách khái quát nhất, việc nghiên cứu thị
trường quốc tế được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau:
– Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu: Nhân tố thuộc về hệ
thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do hoá
mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với kinh
doanh quốc tế, các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối mặt với các hạn chế
thương mại khác nhau. Phổ biến nhất là thuế quan, một loại thuế do Chính
phủ nước ngoài đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Nhà xuất khẩu cũng
có thể phải đối mặt với hạn ngạch.
Thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng bởi hạn chế do việc kiểm soát
ngoại hối và đối diện với một loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép
nhập khẩu, những sự quản lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với
các nhà đầu tư nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối
xử với hàng nước ngoài.
– Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế: Khi xem xét các thị
trường nước ngoài, nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng
nước. Có ba đặc tính kinh tế phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một
thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài đó là:
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
19
+ Cấu trúc công nghiệp của nước nhập khẩu, cấu trúc công nghiệp của
nước nhập khẩu định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức
và mức độ sử dụng nhân lực.
+ Việc phân phối thu nhập: Sự phân phối thu nhập của mpột nước bị
chi phối bởi cấu trúc công nghiệp và chịu tác động của nhaan tố chính trị.
+ Động thái của các nền kinh tế: Các nước trên thể giới đang trải qua
những giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bởi tốc độ tăng trưởng
khác nhau. Tốc độ tăng trưởng ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường và tổng
mức nhập khẩu sản phẩm.
– Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị-luật pháp: Các
quốc gia khác nhau về môi trường chính trị-pháp lý. Do đó khi xem xét khả
năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý đến nhân
tố cơ bản sau :
+ Thái độ đối với nàh kinh doanh nước ngoài
+ Sự ổn định chính trị
+ Sự điều tiết về tiền tệ
+ Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền.
Các qui định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý như việc
cấm đoán hoặc kiểm soát đối với một số hàng hoá dịch vụ, cấm một số
phương thức hoạt động thương mại (trong lĩnh vực quảng các ), các kiểu
kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc đối với sản phẩm.
– Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá. Mỗi quốc gia đều
có những tập tục, qui tắc, bản sắc riêng. Chúng được hình thành heo truyền
thống văn hoá mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của
khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất
hiện khá nhiều tập tính tiêu dùng chung cho moị dân tộc. Song những yếu tố
văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng mạnh đến thói
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
20
quen và tâm lý tiêu dùng. Sự khác biệt văn hoá ảnh hưởng tới cách thức giao
dịch được tiến hành, sản phẩm và hình thức khuyếch trương.
– Nghiên cứu nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh. Sự hấp dẫn của thị
trường nước ngoài còn chịu ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh
trên thị trường đó. Trước hết, các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối đầu
với các đối thủ cạnh tranh nộ địa và các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt
động trên thị trường đó.
– Nghiên cứu về môi trường khoa học kỹ thuật: cần phải xem xét tới
khả năng phát triển khoa học ở các thị trường tránh trường hợp đi sau hoặc
phát triển ở cuối chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường đó.
Mặt khác của việc nghiên cứu thị trường hàng hoá ở các thị trường của
doanh nghiệp để nhằm hiểu biết quy luật vận động cuả chúng. Mỗi thị
trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng. Quy luật đó thể hiện qua
sự biến đổi về cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường. Nắm vững các quy
luật của thị trường hàng hoá để giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn
kinh doanh liên quan ít nhiều đến vấn đề thị trường như thái độ tiếp thu của
người tiêu dungtf, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá… Nghiên cứu thị
trường thế giới phải bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất
của mặt hàng, ngành hàng sản xuất cụ thể, tức là việc nghiên cứu không chỉ
giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà ở cả lĩnh vực sản xuất, phân phối hàng hoá.
Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng
hoá cụ thể được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông thị trường của
hàng hoá đó.
3.2. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu
Đây là kế hoạch hoạt động cụ thể của một quan hệ giai dịch mua bán
hàng hoá hay dịch vụ (chính sách Marketing-mix). Phương án kinh doanh
được hình thành trên những cơ sở thông tin có được trong quá trình nghiên
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
21
cứu thị trường kéet hợp với tiềm lực của công ty. Phương án kinh doanh cần
thể hiện được các nội dung sau:
– nhận định tổng quan về diễn biến tình hình thị trường thế giưoí và thị
trường khu vực, tình hình thị trường trong nước và thị trường nước nhập
khẩu.
– Lựa chọn phương thức giao dịch, thị trường và khách hàng giao dịch.
ậ đây nhà kinh doanh cần xác định mình sẽ giao dịch bằng cách nào: trực
tiếp hay qua trung gian hay mua đứt bán đoạn, từ đó đề ra kế hoạch cụ thể
cho những hoạt động tiếp theo. Trước khi có được một quyết định chính xác
người kinh doanh cần tìm hiểu rõ các nhân tố chi phối đến quá trình giao
dịch như: Môi trường vĩ mô, tập quán thương mại…
3.3. Tổ chức thực hiện xuất khẩu
Sau khi đã có được những thông tin , số liệu cần thiết thông qua việc
nghiên cứu thị trường và lựa chọn phương thức giao dịch, thì người làm
Marketing xuất khẩu cần phải lập kế hoạch Marketing với nội dung khái
quát như sau:
– Trên cơ sở kế hoạch chung và quan điểm của Marketing, công ty cần
hình thành mối quan hệ giữa chiến lược và chiến thuật, cũng như các quyết
định Marketing xuất khẩu, đoạn thị trường trung tâm, cách thức hoạt động,
lựa chọn sản phẩm xuất khẩu cho từng thị trường, tiến hành quảng cáo sản
phẩm.
– Lập kế hoạch và kiểm tra là hai khâu của nội dung tổ chức thực hiện.
Lập kế hoạch gồm kế hoạch chiến lược và kế hoạch Marketing, kế hoạch
chiến lược sẽ chỉ ra những định hướng cơ bản, những chỉ tiêu tổng hợp khái
quát để xây dựng chỉ tiêu (doanh nghiệp đề ra những chỉ tiêu, biện pháp cụ
thể…) kiểm tra là lượng hoá và phân tích các kết quả đã đạt được, trong
khuôn khổ các kế hoạch chiến lược Marketing đồng thời tiến hành những sự
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
22
điều chỉnh cần thiết phù hợp với sự biến động của thị trường trên cơ sở phân
tích đánh giá những hiện tượng thực tế phát sinh.
Triển khai chiến lược Marketing xuất khẩu trước hết là đề ra mục tiêu
của việc xâm nhập mở rộng thị trường xuất khẩu từng đợt, tiếp theo là kế
hoạch hoá các yếu tố Marketing-mix. Sản phẩm giá cả, phân phối giao tiếp
khuyếch trương. Cuối cùng nhà xuất khẩu sẽ phải lựa chọn được một
phương án tối ưu nhất và tiến hành thực hiện.
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
23
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU THỦ CÔNG MỸ NGHỆ -ARTEXPORT
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY –
ARTEXPORT
1) Qúa trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hà nội tên giao dịch là
ARTEXPORT được thành lập theo quyết định số 617/BNT-BCCS ngày 23-
12-1964 của Bộ ngoại thương nay là Bộ Thương mại, trụ sở đặt tại 31-33
Ngô Quyền – quận Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Nhiệm vụ chính của công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu mặt
hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm, sứ, sơn mài, thảm cói, thảm ngô, hàng
thêu ren ngày nay phát triển thêm một số mặt hàng khác như: Thảm len,
hàng may mặc, thảm đay….
1.1 Các giai đoạn phát triển của công ty.
+ Giai đoạn từ 1964-1989: Đây là thời kỳ hoạt động theo cơ chế bao
cấp mọi hoạt động kinh doanh của công ty ARTEXPORT hoàn toàn thụ
động do kế hoạch Nhà nước giao. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty thời kỳ
này là tổ chức sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, tổ chức giao nhận vận tải
ngoại thương.
Sau năm 1975 Công ty bắt tay vào việc quản lý xuất nhập khẩu ngành
hàng thủ công mỹ nghệ trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm (1976 –
1980) tổng kim ngạch lên tới 234,6 triệu rúp/USD, kim ngạch xuất khẩu
thời kỳ này là rúp-USD 194,6 triệu rúp/USD. Trong thời kỳ kế hoạch 5 năm
(1981-1985) tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 289,3 triệu rúp/USD, bình
quân hàng năm đạt trên 57 triệu rúp/USD năm cao nhất lên tới 66 triệu
rúp/USD (1984).
+ Giai đoạn 1989-1995: Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hà
Nội phải chuyển qua thời kỳ mới hoạt động theo đúng chức năng tự hạch
toán, hoạch định các chiến lược kinh doanh và tự chịu trách nhiệm nên
NGUYỄN HỒNG QUÂN MARKETING
38 A
24
doanh nghiệp không tránh khỏi những lúng túng. Thêm vào đó, giai đoạn
này Liên Xô và Đông Âu (thị trường xuất khẩu chính của công ty) biến
động thay đổi cơ chế do vậy kim ngạch xuất khẩu của công ty giảm đáng
kể.
Để duy trì và tồn tại, phát triển ngành hàng công ty phải có những
biện pháp bước đi thích hợp để ổn định dần những khó khăn về thị trường
tiêu thụ, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tăng cường phát triển mặt
hàng mới, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
Giai đoạn từ 1995 đến nay: giai đoạn này công ty xuất nhập khẩu thủ
công mỹ nghệ Hà Nội hoạt động theo mô hình mới, phương thức kinh
doanh thời kỳ này cùng thay đổi linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị
trường.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự giúp đỡ chỉ đạo của Bộ
Thương mại các cơ quan Nhà nước, cùng với sự nỗ lực phấn đấu khắc phục
mọi khó khăn của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty vẫn giữ vững và
phát huy chữ tín của mình đối với tất cả các bạn hàng trong và ngoài nước.
1.2. Mô hình và bộ máy tổ chức của công ty xuất nhập khẩu
ARTEXPORT .
– Văn phòng gồm 12 người với nhiệm vụ quản lý tài sản chung của
công ty, theo dõi tình hình sử dụng tài sản, quản lý các khoản chi tiêu thuộc
phạm vi văn phòng.
– Phòng tổ chức cán bộ có 7 cán bộ công nhân viên có nhiệm vụ giúp
các đơn vị tổ chức sắp xếp và quản lí lao động để tạo điều kiện nhằm sử
dụng hợp lý và có hiệu qủa lực lượng lao động của công ty.
Phòng tài chính kế hoạch có 11 người có nhiệm vụ tạo điều kiện cho
các đơn vị phát huy tốt hiệu qủa công việc, phòng còn tham mưu cho giám
đốc xét duyệt các phương án kinh doanh và phân phối thu nhập của công ty.
Phòng thị trường hàng hóa có chức năng tìm hiểu khách hàng, thị
trường và thực hiện các biện pháp giữ khách hàng.
– Các phòng nghiệp vụ xuất khẩu có 10 phòng trực tiếp hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu theo các phương án được giám đốc xét duyệt.