BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
HỒ THỊ PHƯƠNG HOA
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CÂN NẶNG SƠ SINH
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI PHƯỜNG HƯƠNG LONG
THÀNH PHỐ HUẾ NĂM 2015
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
BÁC SĨ Y HỌC DỰ PHÒNG
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐINH THANH HUỀ
Huế – 2016
Lời Cảm Ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào
tạo Đại học – Công tác Sinh viên, Khoa Y tế công cộng cùng toàn thể
quý thầy cô Trường Đại học Y Dược Huế đã tận tình giảng dạy, truyền
đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường
cũng như làm luận văn.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đinh Thanh Huề
người Thầy đã hướng dẫn tôi tận tình, chu đáo trong quá trình làm luận văn
tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học
Y Dược Huế hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu tham khảo.
Tôi xin cảm ơn Ủy ban nhân dân, Trạm Y tế, các bà mẹ tại phường
Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tạo điều kiện
thuận lợi tốt nhất cho tôi trong quá trình thu thập thông tin, số liệu để hoàn
thành luận văn.
Con xin cảm ơn gia đình đã luôn bên con, khuyến khích, động viên con
trong suốt quá trình học tập cũng như làm luận văn.
Cuối cùng xin được cảm ơn những người bạn đã luôn sẻ chia, giúp đỡ tôi
trong cuộc sống và học tập.
Huế, tháng 5 năm 2016
Hồ Thị Phương Hoa
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Huế, tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn
Hồ Thị Phƣơng Hoa
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BMI
:
Body mass index
Chỉ số khối cơ thể
CNSS
:
Cân nặng sơ sinh
CI
:
Confidence Interval
Khoảng tin cậy
IDF
:
International Diabetes Federation
Hiệp hội Đái tháo đường Thế giới
IOM
:
Institute of Medicine
Viện Y học Hoa Kỳ
OR
:
Odds ratio
Tỉ suất chênh
UNICEF
:
United Nations Children’s Fund
Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc
SSNC
:
Sơ sinh nhẹ cân
THCS
:
Trung Học cơ sở
THPT
:
Trung Học phổ thông
WHO
:
World Health Organization
Tổ chức Y tế thế giới
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………………………….. 1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ……………………………………………………. 3
1.1. Một số vấn đề chung về cân nặng sơ sinh (cnss) …………………………….. 3
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cân nặng sơ sinh …………………………………… 7
1.3. Một số đặc điểm về địa bàn nghiên cứu
……………………………………….. 13
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU …………. 14
2.1. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………………… 14
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ……………………………………………….. 14
2.3. Phương pháp nghiên cứu
……………………………………………………………. 14
2.4. Các biến và phân định biến nghiên cứu ……………………………………….. 15
2.5. Xử lý số liệu và phân tích số liệu
………………………………………………… 18
2.6. Kiểm soát sai lệch thông tin ……………………………………………………….. 19
2.7. Đạo đức nghiên cứu ………………………………………………………………….. 20
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ……………………………………………….. 21
3.1. Thực trạng cân nặng sơ sinh ………………………………………………………. 21
3.2. Các yếu tố liên quan đến cân nặng sơ sinh …………………………………… 24
Chƣơng 4 BÀN LUẬN ………………………………………………………………………. 30
4.1. Thực trạng cân nặng sơ sinh ………………………………………………………. 30
4.2. Các yếu tố liên quan đến cân nặng sơ sinh …………………………………… 33
4.3. Một số hạn chế của đề tài
…………………………………………………………… 38
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 39
KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………………………………… 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chiến lược, chính sách nhằm hướng tới cải
thiện và nâng cao hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó chăm sóc
sức khỏe bà mẹ và trẻ em là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Để làm được điều đó
thì việc cải thiện dinh dưỡng bà mẹ – trẻ em cần phải được quan tâm đúng
mức và nó cũng là một trong những mục tiêu của chiến lược quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của chính phủ, trong
đó cân nặng sơ sinh là một vấn đề đáng quan tâm [32].
Cân nặng sơ sinh là chỉ số quan trọng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
và sức khỏe bà mẹ cũng như sự phát triển về thể chất, tinh thần và vận động
của trẻ sau này [40]. Nhẹ cân khi sinh (dưới 2500g) là một trong những yếu tố
chính ảnh hưởng đến tỷ lệ bệnh tật và tử vong sơ sinh [15], [40]. Sơ sinh nhẹ
cân là nguyên nhân thứ 2 trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sơ sinh
tại Hoa Kỳ và chiếm 53,6% trong tổng số tử vong sơ sinh sớm ở các nước thu
nhập trung bình và thấp [44], [46]. Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ đẻ non/nhẹ cân
chiếm 19% trong mô hình bệnh tật và 25% tử vong sơ sinh [41]. Cân nặng
sơ sinh thấp còn làm giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng, giảm khả năng nhận
thức và chỉ số thông minh của trẻ đồng thời làm tăng khả năng mắc các bệnh
lý về tim mạch, đái tháo đường khi trưởng thành [7], [18], [40], [47], [52],
[53]. Cân nặng sơ sinh của trẻ có liên quan mật thiết với dinh dưỡng của mẹ
trước và trong quá trình mang thai. Bên cạnh đó, phụ nữ có BMI thấp hoặc
tăng không đủ cân trong thai kỳ cũng là yếu tố quan trọng dẫn đến thai kém
phát triển [49].
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân vẫn còn cao trên
toàn thế giới và Việt Nam. Theo Quỹ Nhi đồng liên hợp quốc, năm 2013, gần
2
22 triệu trẻ sơ sinh tức khoảng 16% trẻ sơ sinh nhẹ cân trên toàn cầu [58].
Phần lớn những đứa trẻ này sinh ra ở các nước đang phát triển, trong đó các
nước Nam Á chiếm tỷ lệ cao nhất với 28% năm 2013 [59]. Tại Việt Nam theo
Tổng cục Thống kê, tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân vẫn còn ở mức cao và chưa có dấu
hiệu giảm, 5,1% năm 2011 tăng lên 5,7% năm 2014 [5], [34], [40]. Tương tự,
tại Thừa Thiên Huế, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân trên toàn tỉnh đang có xu hướng
tăng, từ 1,78% năm 2014 lên 1,98% năm 2015 [37].
Trước thực trạng đó, để giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân đồng thời nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ ở độ tuổi mang thai, việc
tìm hiểu về thực trạng và các yếu tố liên quan đến cân nặng sơ sinh là hết sức
cần thiết. Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thực
trạng cân nặng sơ sinh và các yếu tố liên quan tại phường Hương Long
thành phố Huế năm 2015” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng cân nặng sơ sinh trong năm 2015 tại phường Hương
Long, thành phố Huế.
2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến cân nặng sơ sinh ở các đối tượng
nghiên cứu.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÂN NẶNG SƠ SINH (CNSS)
1.1.1. Một số định nghĩa
– Thời kỳ sơ sinh là thời kỳ bắt đầu từ lúc sinh cho đến 4 tuần lễ đầu [1].
– CNSS là trọng lượng đầu tiên của thai nhi hay trẻ sơ sinh có được sau
khi sinh. Đối với trẻ đẻ sống, cân nặng tốt nhất nên được đo trong giờ đầu tiên
của cuộc đời [60].
– Trẻ sơ sinh nhẹ cân (SSNC): theo tổ chức y tế thế giới (WHO) trẻ sơ
sinh nhẹ cân là trẻ khi sinh có cân nặng < 2500g không kể tuổi thai [40].
1.1.2. Phân loại sơ sinh
- Phân loại sơ sinh theo tuổi thai:
+ Trẻ sinh non là trẻ sinh ra và sống từ lúc tròn 28 tuần thai đến chưa
tròn 37 tuần thai kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối của mẹ [1].
+ Trẻ sinh đủ tháng là trẻ sinh ra và sống từ tuần 37 đến 41 tuần 6 ngày
kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối của mẹ [1].
+ Trẻ sinh già tháng là trẻ được sinh và sống sau 42 tuần tuổi thai kể từ
ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối của mẹ [1].
- Phân loại trọng lƣợng sơ sinh theo tuổi thai:
+ Sơ sinh có cân nặng tương ứng với tuổi thai (AGA: appropriate for
gestation Age): có cân nặng từ đường bách phân vị 10 đến 90 [1].
+ Sơ sinh có cân nặng lớn hơn so với tuổi thai (SAG: Large for
Gestation Age): có cân nặng trên đường bách phân vị 90 [1].
+ Sơ sinh có cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai (SGA: Small for
Gestation Age): có cân nặng dưới đường bách phân vị 10 [1].
4
1.1.2. Hậu quả của sơ sinh nhẹ cân
Trẻ nhẹ cân khi sinh thường kèm theo một loạt các rủi ro nghiêm trọng
về sức khỏe. Các bé bị suy dinh dưỡng ngay khi ở trong bụng mẹ sẽ đối mặt
với nguy cơ tử vong tăng cao trong những ngày đầu, tháng đầu hoặc năm đầu
đời. Những trẻ sống sót có thể bị suy giảm chức năng miễn dịch và tăng nguy
cơ nhiễm bệnh; chúng có thể vẫn bị suy dinh dưỡng, giảm sức mạnh cơ bắp
và có nguy cơ cao bị tiểu đường và các bệnh về tim trong cuộc đời sau này.
Trẻ sinh ra bị nhẹ cân có thể có chỉ số thông minh thấp và bị khuyết tật về
nhận thức, ảnh hưởng tới kết quả học tập ở trường và cơ hội việc làm khi
trưởng thành [39].
1.1.3. Tình hình sơ sinh nhẹ cân trên thế giới và Việt Nam
1.1.3.1. Tình hình sơ sinh nhẹ cân trên thế giới
Theo Quỹ Nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF), năm 2013, gần 22 triệu trẻ
sơ sinh tức khoảng 16% trẻ sơ sinh nhẹ cân trên toàn cầu [58]. Có sự khác
nhau đáng kể trong tỷ lệ SSNC giữa các khu vực và trong mỗi nước; Tuy
nhiên, phần lớn trẻ SSNC ở các nước có thu nhập trung bình và thấp. Theo
uớc tính năm 2013, tại khu vực Nam Á tỷ lệ SSNC là 28%, 13% ở châu Phi
cận Sahara và 9% trong các nước Mỹ Latinh. Bên cạnh đó, Một số quốc gia
có thu nhập cao cũng đang phải đối mặt với một tỷ lệ đáng kể SSNC, ví dụ
như Tây Ban Nha 8%, Hoa Kỳ là 8%, Vương quốc Anh 7%, Bắc Ireland 5%
[59]. Trong cùng một quốc gia tỷ lệ SSNC cũng rất khác nhau theo từng vùng
kinh tế. Ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội cao nhất có khả năng được chăm
sóc y tế đầy đủ với tiêu chuẩn chăm sóc tương tự như ở các nước có thu nhập
cao nên có tỷ lệ SSNC thấp hơn so với khu vực có điều kiện kinh tế xã hội
thấp. Tại Ấn Độ, nơi có thu nhập cao tỷ lệ trẻ SSNC là 10% và nơi có thu
nhập thấp nhất tỷ lệ này lên cao nhất đến 56% [61].
Điều đáng chú ý là mặc dù tỷ lệ SSNC cao nhưng vẫn chưa phản ánh đầy
đủ, chính xác số trẻ SSNC trong cộng đồng vì còn nhiều trường hợp sinh con
tại nhà hoặc trong hệ thống y tế tư nhân, không được báo cáo trong số liệu
5
chính thức. Vẫn tồn tại một tỷ lệ trẻ sơ sinh không được cân lúc sinh, đặc biệt
là ở các nước có thu nhập thấp [61].
Vì thế, việc xác định các quần thể nguy cơ cao cũng như những rào cản
trong tiếp cận các biện pháp y tế và dinh dưỡng là một ưu tiên toàn cầu và
cũng là nền tảng cho sự thành công của các chương trình can thiệp [61].
1.1.3.2. Tình hình cân nặng sơ sinh ở Việt Nam
Tại Việt Nam, số liệu tỷ lệ trẻ SSNC được thu thập qua hệ thống báo cáo
thường quy và một số nghiên cứu, tỷ lệ này nhìn chung thay đổi tùy thuộc vào
thời gian và cơ quan thông tin.
Năm 2002, theo Viện Dinh dưỡng tỷ lệ trẻ SSNC chung cả nước là
11,08%. Theo WHO năm 2004 tỷ lệ trẻ SSNC tại Việt Nam là 9%. Năm
2005, theo Bộ Y tế, tỷ lệ này là 5,1% [30].
Nghiên cứu của Hoàng Thu Nga và cộng sự năm 2009 tại 13 xã của tỉnh
Phú Thọ, tỷ lệ trẻ sơ sinh cân nặng dưới 2500g là 6,3% [22]. Nghiên cứu của
Phan Bích Nga (2010) tại Bệnh viện phụ sản Trung ương tỷ lệ trẻ có CNSS
thấp là 10,5% [24]. Theo nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến cân nặng và
chiều dài trẻ sơ sinh tại 4 xã miền núi tỉnh Bắc Giang năm 2012 của Lê Thị
Hợp, tỷ lệ trẻ SSNC khá cao (10,8%), có liên quan chặt chẽ giữa cân nặng,
chiều dài trẻ sơ sinh với cân nặng mẹ trước thai kỳ và giữa chiều dài sơ sinh
với mức tăng cân trong 9 tháng mang thai của bà mẹ [13].
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân theo vùng tại Việt Nam, 2014 [40].
6
Theo Tổng cục Thống kê năm 2014, toàn quốc có 94,3% trẻ được cân
khi sinh và có khoảng 5,7% trong số trẻ được cân này có cân nặng dưới
2500g. Sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng, tỷ lệ thấp nhất là 3,7% ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long và cao nhất là 7,2% ở vùng Tây Nguyên. Nhìn
chung, tỷ lệ SSNC không biến động nhiều theo độ tuổi của bà mẹ, tỷ lệ này có
xu hướng giảm khi mức sống tăng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ SSNC của nhóm
bà mẹ không có bằng cấp hoặc có trình độ tiểu học cao hơn nhóm bà mẹ trình
độ trung học cơ sở (THCS) trở lên [40].
Qua các báo cáo, tỷ lệ trẻ SSNC khác nhau theo vùng, địa phương và
khác nhau giữa các điều tra nghiên cứu. Trong thực tế, hệ thống báo cáo thu
thập thông tin thường qui vẫn còn nhiều trường hợp chưa thống kê hết được
nên chưa phản ánh chính xác tỷ lệ thực trong cộng đồng.
1.1.2.2. Tình hình cân nặng sơ sinh tại Thừa Thiên Huế.
Năm 2002, theo nghiên cứu của Đinh Thanh Huề tại phường Hương
Long, thành phố Huế, tỷ lệ trẻ SSNC là 8,4% [14].
Năm 2010, nghiên cứu ở Phú Vang của Nguyễn Ái Thùy Phương, Hoàng
Trọng Quý CNSS trung bình là 3200± 400g với tỷ lệ SSNC là 2,5% và có mối
liên quan giữa CNSS của trẻ với nghề nghiệp, tăng cân trong thai kỳ, chiều
cao của mẹ [27]. Năm 2011, nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi tại các nhà
hộ sinh khu vực thành phố Huế, tỷ lệ trẻ SSNC là 3,4% [26].
Theo báo cáo của Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản Thừa Thiên
Huế, tỷ lệ trẻ SSNC năm 2014 là 1,78%, năm 2015 là 1,98% trên toàn tỉnh
[37] và theo tác giả Nguyễn Hoàng Long, tỷ lệ SSNC là 10% tại Bệnh viện
Trung ương Huế [21].
Như vậy, tỷ lệ trẻ SSNC ở Thừa Thiên Huế khác nhau theo từng báo cáo
cũng như nghiên cứu trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, nhìn chung, tỷ lệ cân nặng
sơ sinh vẫn còn ở mức khá cao và có xu hướng tăng trong những năm gần đây.
7
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CÂN NẶNG SƠ SINH
1.2.1. Các đặc trƣng về dân số học
Tuổi của mẹ lúc sinh: tuổi của bà mẹ có liên quan đến CNSS, các
nghiên cứu cho thấy các bà mẹ có nhóm tuổi dưới 20 (hay nhóm tuổi 15-19)
và các bà mẹ có tuổi trên 35 có nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân cao hơn nhóm tuổi
khác [27].
Nghiên cứu của Henry và cộng sự ở Nigeria năm 2010-2012 cho thấy
tuổi của mẹ ảnh hưởng đáng kể đến SSNC, phụ nữ mang thai trong độ tuổi
14-18 có nguy cơ cao nhất [45]. Nghiên cứu Nguyễn Thị Kim Phương (2007),
Nguyễn Thị Kiều Nhi (2011) kết quả đã cho thấy các bà mẹ > 35 tuổi có con
cân nặng < 2500g chiếm tỷ lệ cao hơn các độ tuổi khác [26], [28].
Trình độ học vấn: trình độ học vấn của mẹ có liên quan đến sự phát
triển của thai nhi, nhất là ở cộng đồng nghèo. Những bà mẹ có trình độ học
vấn thấp sẽ kèm theo những hiểu biết về sức khỏe sinh sản, bệnh tật nói chung
và vệ sinh thai nghén nói riêng bị hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển của
thai nhi. Theo Lê Thị Phương Nhi (2009), Nguyễn Thị Kiều Nhi (2011) bà
mẹ kém hiểu biết có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao [25], [26].
Nghề nghiệp: là một nguy cơ sinh trẻ non tháng và sinh trẻ SSNC cao.
Các nghiên cứu của tác giả như Lê Thị Phương Nhi (2009) cho thấy bà mẹ có
nghề nghiệp là nông, ngư nghiệp có tỷ lệ NCSS cao hơn các nhóm nghề khác
và Văn Quang Tân (2010-2012) cho thấy nghề nghiệp là yếu tố có liên quan
với CNSS và bà mẹ có nghề nghiệp là công nhân thì có nguy cơ sinh trẻ nhẹ
cân cao gấp 2,1 lần so với bà mẹ có nghề nghiệp khác [25], [30].
Kinh tế gia đình: có một mối liên quan giữa thai kém phát triển và tình
trạng kinh tế - xã hội thấp của người mẹ. Trong những gia đình như vậy, có
một tỷ lệ cao các bà mẹ thiếu dinh dưỡng, thiếu máu và mắc bệnh [42].
8
1.2.2. Các đặc tính về sinh học - di truyền
Chiều cao mẹ: mẹ có chiều cao dưới 145 cm có nguy cơ xương chậu hẹp
gây nên ngôi bất thường, đẻ khó, biến chứng khi đẻ, con nhẹ cân và tử vong
chu sinh cao [20]. Mẹ có chiều cao ≥150cm thì cân nặng trung bình của con
cao hơn nhóm mẹ có chiều cao <150cm [16], [26]. Nghiên cứu của Văn
Quang Tân tại Bình Dương (2010-2012) cho thấy bà mẹ có chiều cao <145cm
khi có thai có nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân cao gấp 2,1 lần bà mẹ có chiều cao
≥145cm [30].
Cân nặng mẹ: cân nặng trước thai kỳ là một chỉ số để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng, tiền sử ăn uống của mẹ và cũng là một chỉ số tiên lượng trẻ
SSNC. Nghiên cứu của Phan Bích Nga (2010) tại Bệnh viện phụ sản Trung
ương cho thấy CNSS có liên quan đến cân nặng của mẹ trước thai kỳ [24].
Tác giả Văn Quang Tân tại Bình Dương (2010-2012), mẹ có cân nặng trước
thai kỳ dưới 45kg có nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân gấp 1,9 lần bà mẹ có cân nặng
≥ 45kg [30].
Chỉ số khối cơ thể (BMI): tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ trước khi
mang thai được đánh giá qua chỉ số khối cơ thể (BMI) có liên quan chặt chẽ
đến CNSS. Nghiên cứu của Hoàng Thu Nga và cộng sự tại Phú Thọ trong 3
năm 2003-2006 cho kết quả: phụ nữ có BMI dưới 18,5 sinh con có tỷ lệ
SSNC là 7,7% trong khi con số này ở phụ nữ BMI từ 18,5 trở lên là 5,1%, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê [22]. Nghiên cứu của Văn Quang Tân năm
2010-2012 tại Bình Dương cho thấy bà mẹ trước khi có thai bị thiếu năng
lượng trường diễn (BMI<18,5) nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân cao gấp 4,47 lần so
với các bà mẹ không bị thiếu năng lượng trường diễn [30].
Năm 2000, cơ quan khu vực Thái Bình Dương của WHO, Hội nghiên
cứu béo phì Quốc tế phối hợp với Viện nghiên cứu bệnh Đái tháo đường
Quốc tế (IDF) đã đưa ra chỉ tiêu phân loại béo phì ở người trưởng thành cho
cộng đồng các nước châu Á như sau [17].
9
Bảng 1.2. Phân loại BMI cho cộng đồng châu Á [17]
Phân loại
BMI
Nhẹ cân
< 18,5
Bình thường
18,5 - 22,9
Thừa cân
≥ 23
Tiền béo phì
23 - 24,9
Béo phì độ I
25 - 29,9
Béo phì độ II
≥ 30
Như vậy, theo bảng phân loại cho cộng đồng các nước châu Á thì chỉ số
người Việt Nam bình thường là từ 18,5 - 22,9.
Tăng cân trong thai kỳ: mức tăng cân hợp lý trong thai kỳ là từ 10 -
15kg khi mang thai [3]. Trung bình bà mẹ tăng 9-12kg trong thai kỳ, trong 3
tháng đầu tăng không quá 1,5kg. Trong 3 tháng giữa, trung bình mỗi tuần
tăng 0,5kg và tăng tổng cộng 6kg. Vào cuối thai kỳ, trong lượng cơ thể tăng
nhanh từ 4-5kg [2].
Từ năm 2009, Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) công bố bảng hướng dẫn tăng
cân trong thai kỳ dựa vào chỉ số BMI trước mang thai, đã được WHO công
nhận và khuyến cáo sử dụng [19].
Bảng 1.2. Bảng khuyến cáo tăng cân trong thai kỳ của IOM [19]
Phân loại
BMI trƣớc mang thai
Cân nặng khuyến cáo(kg)
Nhẹ cân
< 18,5
12,7 - 18,2
Bình thường
18,5 - 24,9
11,4 - 15,9
Thừa cân
25 - 29,9
6,8 - 11,4
Béo phì
≥ 30
5 - 9,1
10
Mức tăng cân là yếu tố liên quan đến CNSS [25], [29]. Các tác giả đều
thấy rằng tăng cân càng ít thì nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân càng cao. Theo tác giả
Nguyễn Hoàng Long, nếu mẹ tăng cân dưới 10kg có tỷ lệ SSNC là 20,5%,
tăng cân từ 11-15kg thì nguy cơ này là 7,4%, tăng trên 15kg là 4,8%, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê [21].
Khoảng cách sinh: khoảng cách giữa 2 lần sinh dưới 2 năm là nguy cơ
sinh trẻ nhẹ cân; theo các nghiên cứu của các tác giả như Lê Thị Phương Nhi
năm 2009, Nguyễn Đỗ Huy cho thấy khoảng cách sinh dưới 2 năm sẽ có nguy
cơ cao sinh trẻ nhẹ cân [16], [25].
Tiền sử sinh sản của mẹ: tiền sử sinh đẻ của mẹ trong các lần mang thai
trước có liên quan tới CNSS của trẻ. Nghiên cứu của Sclowitz năm 2013 tại
Brazil: các bà mẹ có tiền sử sinh non làm tăng gấp 4 lần sinh con nhẹ cân
trong các lần sinh tiếp theo [55]. Bên cạnh đó, tiền sử sinh non, tiền sử sinh
con nhẹ cân và tiền sử lưu/nạo/sẩy thai của bà mẹ cũng ảnh hưởng đáng kể tới
CNSS của trẻ. Sự lặp lại sinh trẻ nhẹ cân cao hơn 3 lần trong số các bà mẹ có
tiền sử sinh non trước đó [55]. Nghiên cứu tại miền trung Kenya của
Onesmus, các bà mẹ đã sinh con nhẹ cân trong thai kỳ trước đó tăng khả năng
sinh trẻ nhẹ cân gấp 5 lần so với những người có tiền sử sinh con bình thường
[41]. Tiền sử lưu/nạo/sẩy thai của mẹ làm tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân trong
thai kỳ tiếp theo, nghiên cứu của Weijin Zhou ở Đan mạch năm 2000 cho kết
quả: tỷ lệ CNSS thấp trong những trẻ đẻ sống cao hơn ở những phụ nữ có
một, hai hoặc nhiều lần nạo phá thai trước đó, so với phụ nữ không có bất kỳ
nạo phá thai nào [62]. Và nghiên cứu của Raatikainen K năm 2006 tại Phần
Lan: tỷ lệ SSNC ở phụ nữ với hai hoặc nhiều ca nạo phá thai trước cao hơn
nhóm phụ nữ còn lại 1,54 lần (OR, 1,54; CI 95%, 1,02-2,32) [54].
Các bệnh lý từ mẹ: trong thời gian có thai, bà mẹ bị bệnh nhiễm trùng
có nguy cơ thai chết lưu, sẩy thai hay sinh non. Tiền sản giật - sản giật, đái
11
tháo đường, cao huyết áp gây nhiều biến chứng cho thai, là biểu hiện của một
thai kỳ nguy cơ cao, có thể gây tử vong cho mẹ và thai nhi [20]. Theo
Ludmilan, hen suyễn làm tăng nguy cơ trẻ suy dinh dưỡng bào thai, giảm cân
nặng trung bình lúc sinh và giảm cân nặng của thai so với tuổi thai [42], [50].
Bất thường rau thai: các bất thường tại rau thai có liên quan đến hệ
thống mạch máu, làm giảm tuần hoàn bánh rau. Dinh dưỡng của trẻ trong bào
thai hầu như phụ thuộc vào nguồn dinh dưỡng của mẹ (qua ăn uống), qua tuần
hoàn lưu thông đến tử cung và trao đổi với máu con thông qua hàng rào rau
thai. Rau thai, bên cạnh chức năng trao đổi chất như kể trên, còn là nhà máy
chuyển hoá một số chất, cũng như sản xuất một số chất có chức năng hỗ trợ
dinh dưỡng cho thai nhi. Bởi vậy khi cấu trúc, chức năng rau thai bất thường
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nuôi dưỡng thai [57]. Nhiều nghiên cứu
chứng minh tỷ lệ NCSS cao ở thai phụ vỡ ối sớm (38%), nhau tiền đạo (17%)
và rau bong non (15,5%) [56].
Bất thường di truyền bào thai hay nhiễm trùng bào thai: đồng hóa
gene và cơ chế bề mặt cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong thời
kỳ đầu phôi thai và thậm chí là từ trước khi có thai và trong quá trình thụ thai.
Các dị dạng bẩm sinh đi kèm với bất thường nhiễm sắc thể làm cho tình trạng
chậm phát triển nặng thêm.
Tuổi thai: tuổi thai khi sinh có mối quan hệ chặt chẽ với CNSS, theo
WHO, SSNC là kết quả của sinh non hoặc suy dinh dưỡng bào thai. Nghiên
cứu của các tác giả: Văn Quang Tân (năm 2010-2012) tại Bình Dương, Henry
và cộng sự (2010-2012) ở Nigeria, Siza JE (2008) tại Tanzania cho thấy trẻ
sinh thiếu tháng có nguy cơ cân nặng <2500g cao hơn trẻ sinh đủ tháng [30],
[45], [56].
Giới tính thai nhi: đối với trẻ cùng tuổi thai, trẻ sơ sinh nam có xu
hướng nặng hơn trẻ nữ. Nghiên cứu của các tác giả: Henry và cộng sự (2010-
2012) ở Nigeria, Sclowitz năm 2013 ở Brazil, Văn Quang Tân năm 2012 đều
cho kết quả trẻ nam có cân nặng sơ sinh cao hơn trẻ nữ [30], [45].
12
1.2.3. Yếu tố y tế - xã hội
Số lần khám thai: khám thai, số lần khám thai có liên quan đến cân
nặng của trẻ sơ sinh [25]. Theo Lê Thị Phương Nhi (2009), Nguyễn Thị Kiều
Nhi (2011) bà mẹ khám thai không đầy đủ có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao
[25], [26].
Bổ sung sắt, acid folic: theo khuyến cáo của viện Y học Hoa Kỳ, tất cả
phụ nữ mang thai cần bổ sung 30 mg sắt hằng ngày trong 3 tháng giữa và 3
tháng cuối của thời kỳ thai nghén. Những phụ nữ phát hiện thiếu máu thiếu
sắt, cần bổ sung 60 tới 120 mg sắt hàng ngày [9].
Một số nghiên cứu đưa ra những kết luận có sự liên quan giữa thiếu máu
ở người mẹ trong thời kỳ thai sản và những vấn đề về sức khỏe của trẻ sau
này: bà mẹ thiếu máu trong thai kỳ dễ bị chảy máu ở thời kỳ hậu sản, tăng
nguy cơ đẻ con thấp cân, tăng tỷ lệ mắc bệnh, tử vong của mẹ và con [20].
Nghiên cứu của Henry và cộng sự (2010-2012) ở Nigeria cho thấy thiếu máu
mẹ là một yếu tố nguy cơ sinh trẻ SSNC cao gấp 2,8 lần bà mẹ không thiếu
máu [45].
Bên cạnh đó, những phụ nữ chuẩn bị có thai nên tiêu thụ ít nhất 0,4mg
acid folic mỗi ngày, từ bữa ăn thường hoặc bữa bổ sung. Những bà mẹ có tiền
sử thai nghén bị dị tật ống thần kinh, cần bổ sung 4 mg acid folic trong 1
tháng trước khi có thai và tiếp tục trong 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai [9].
Bộ Y tế Việt Nam khuyến cáo, uống viên sắt/folic ngày 1 viên trong suốt
thời gian có thai đến hết 6 tuần sau đẻ, tối thiểu uống trước đẻ 90 ngày [4].
Chế độ ăn của mẹ: theo WHO, các yếu tố về dinh dưỡng là chỉ số về
chất lượng chăm sóc trước sinh. Dinh dưỡng trong thai kỳ đảm bảo sự tăng
cân phù hợp của bà mẹ và nguồn năng lượng cho sự phát triển của thai nhi.
Nguồn năng lượng cần thiết tăng trung bình là 300 kcal/ngày nhưng sẽ thay
đổi tùy thuộc vào mỗi quý và năng lượng trung bình toàn bộ là từ 2200 đến
13
2900 kcal/ngày. Kém dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai làm thai có thể bị
sẩy, chết lưu, dị tật, đẻ non hoặc nhẹ cân đặc biệt là chế độ dinh dưỡng kém
trong 3 tháng cuối của thai kỳ [42], [43].
Tâm lý của bà mẹ trong thai kỳ: trong khi mang thai người phụ nữ có
nhiều tâm tư lo lắng, những sang chấn về tinh thần hoặc cơ học đều ảnh
hưởng bất lợi đến thai nhi [34]. Theo nghiên cứu của Lê Thị Phương Nhi, các
bà mẹ có biến động tâm lý trong thai kỳ sinh trẻ nhẹ cân cao gấp 6,68 lần so
với các bà mẹ không có biến động tâm lý gì trong thời gian mang thai [25].
Như vậy, một cách khái quát, cân nặng trẻ sơ sinh thấp là hậu quả của
nhiều yếu tố từ sức khỏe, dinh dưỡng của bà mẹ trước, trong quá trình có thai
và tác động của các yếu tố môi trường xã hội.
1.3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Hương Long là một phường thuộc phía Tây thành phố Huế. Phía Tây
giáp với xã Hương Hồ, xã Hương An - huyện Hương Trà. Phía Bắc giáp với
Phường Hương Sơ - thành phố Huế. Phía Đông giáp với Phường Kim Long -
thành phố Huế. Phía Nam giáp với Sông Hương và Phường Thuỷ Biều - thành
phố Huế. Diện tích tự nhiên toàn phường là 720 ha, trong đó diện tích đất
nông nghiệp chiếm 492 ha, Dân số trung bình năm 2015 là 11480 người, có
2629 hộ gia đình với 5745 nữ và 5735 nam. Toàn phường có 18 tổ dân phố,
chia làm 4 khu vực.
14
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
- Tất cả các trường hợp trẻ sinh từ 1/1/2015 đến 31/12/2015 hiện đang cư
trú tại phường Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (210 trẻ
theo ghi nhận tại trạm y tế phường Hương Long).
- Loại trừ những trường hợp thai đôi (4 trường hợp), bà mẹ vắng nhà (4
trường hợp), do vậy, chúng tôi điều tra trên tổng số 202 trẻ.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại 18 tổ dân phố tại phường Hương Long
thành phố Huế.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
1/8/2015 - 30/1/2016
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Dùng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3.2. Phƣơng pháp chọn mẫu
Lập danh sách tất cả các bà mẹ có trẻ sinh từ ngày 1/1/2015 - 31/12/2015
có đầy đủ các tiêu chí chọn mẫu.
2.3.2.3. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
- Công cụ thu thập số liệu là: "Phiếu điều tra thực trạng CNSS và yếu tố
liên quan" được thiết kế sẵn (phụ lục 1).
- Người thu thập số liệu: sinh viên lớp YHDP6, trường Đại học Y Dược Huế.
- Người được phỏng vấn là mẹ của những trẻ được chọn là đối tượng
nghiên cứu.
- Địa điểm phỏng vấn: tại nhà của người được phỏng vấn.
15
2.4. CÁC BIẾN VÀ PHÂN ĐỊNH BIẾN NGHIÊN CỨU
2.4.1. Các biến cần thu thập
Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng cân nặng sơ sinh của trẻ.
Cân nặng sơ sinh của trẻ.
Mục tiêu 2: Các yếu tố liên quan đến cân nặng sơ sinh
Biến phụ thuộc: cân nặng sơ sinh của trẻ.
Biến độc lập gồm:
* Các yếu tố thuộc về bà mẹ:
- Đặc trưng về dân số học: tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, kinh tế
gia đình.
- Tiền sử sản khoa và sức khỏe trước thai kỳ: tiền sử sinh non, tiền sử
lưu/nạo/sẩy thai, tiền sử sinh trẻ nhẹ cân, chiều cao, cân nặng trước khi có thai.
- Tình trạng sức khỏe và chăm sóc y tế trong thai kỳ: bệnh lý thai/nhau,
bệnh lý mẹ, khám thai, sử dụng viên sắt, tăng cân khi có thai, tình trạng ăn
uống trong thai kỳ.
- Tình trạng tâm lý, môi trường lao động trong thai kỳ: lao động, nghỉ
trước sinh, tâm lý trong quá trình mang thai.
* Các yếu tố thuộc về trẻ:
Tuổi thai, giới, tình trạng lúc sinh của trẻ, cách sinh trẻ, thứ tự sinh trẻ.
2.4.2. Mô tả biến nghiên cứu
- Cân nặng của trẻ lúc sinh: cân nặng trẻ sơ sinh được ghi nhận theo lời
khai của bà mẹ, tính bằng gram (g). Chia thành 2 nhóm: nhẹ cân (dưới
2500g), không nhẹ cân (từ 2500g trở lên).
- Tuổi mẹ: là tuổi dương lịch của bà mẹ khi sinh trẻ được tính bằng cách
lấy năm sinh trẻ trừ năm sinh mẹ. Lấy điểm trung vị chia tuổi mẹ thành 2
nhóm: dưới 28 tuổi và từ 28 tuổi trở lên để tìm mối liên quan với cân nặng sơ
sinh của trẻ.
16
- Trình độ học vấn: chia theo các cấp học mà đối tượng đã hoàn thành.
Chia thành 2 nhóm: từ THCS trở xuống (mù chữ đến lớp 9), trung học phổ
thông trở lên (lớp 10 đến sau đại học).
- Nghề nghiệp mẹ: ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, gồm các biến: học
sinh sinh viên, nông dân, công nhân/thợ thủ công, dịch vụ/buôn bán, làm
thuê/mướn, thất nghiệp/nội trợ, công viên chức/nhân viên văn phòng, bộ
đội/công an. Chia thành 2 nhóm: dịch vụ/buôn bán và các nghề khác để tìm
mối liên quan giữa nghề nghiệp mẹ và cân nặng sơ sinh của trẻ.
- Mức kinh tế gia đình: tình trạng kinh tế gia đình của bà mẹ (trong thời
kỳ mang thai) được chia thành 3 mức độ:
+ Trên trung bình: thừa ăn, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình đầy
đủ, các phương tiện cá nhân đắt tiền, hiện đại, thu nhập kinh tế cao, ổn định.
+ Trung bình: đủ ăn, các phương tiện sinh hoạt thông thường đủ dùng,
thu nhập kinh tế thấp nhưng ổn định.
+ Dưới trung bình: thiếu ăn, thiếu nhiều phương tiện sinh hoạt gia đình
thông thường, thu nhập kinh tế không ổn định.
Phối hợp với chuẩn nghèo và cận nghèo do địa phương áp dụng.
Chia thành 2 nhóm: dưới trung bình và từ trung bình trở lên để tìm mối
liên quan giữa kinh tế gia đình và cân nặng sơ sinh của trẻ.
- Sinh non: thu nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2 nhóm: có, không.
- Lưu/nạo/sẩy thai: thu nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2
nhóm: có, không.
- Tiền sử sinh con nhẹ cân: thu nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành
2 nhóm: có (trẻ sinh lần trước có CNSS dưới 2500g), không (không có trẻ
sinh lần trước CNSS dưới 2500g).
- Chiều cao mẹ: ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2 nhóm:
dưới 145 cm và từ 145 cm trở lên [23], [30].
17
- Cân nặng mẹ trước thai kỳ: ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, chia
thành 2 nhóm: dưới 45kg, từ 45kg trở lên [23], [30].
- Chỉ số khối cơ thể (BMI): được tính theo công thức: cân nặng (kg)/
(chiều cao)2 (m). Có 2 nhóm: bình thường: từ 18,5 trở lên, gầy: dưới 18,5 [17].
- Các bất thường về nhau thai: nhau thắt nút, dây nhau ngắn, dây nhau
dính máng, dây nhau quấn cổ… Được ghi nhận theo lời khai của mẹ hoặc
phiếu khám thai (nếu có).
- Bệnh lý mẹ trong quá trình mang thai: được xác định thông qua lời
khai của bà mẹ. Nếu những trường hợp có sổ khám bệnh hoặc những bằng
chứng liên quan thì yêu cầu được xem để xác định (đặc biệt các bệnh như:
tim, thận, tăng huyết áp, thiếu máu, nhiễm độc thai nghén, nhiễm trùng....).
-Số lần khám thai: được ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2
nhóm: khám đủ (≥3 lần), không khám đủ (<3 lần) [4].
Mức tăng cân trong thai kỳ: được thu thập dựa vào lời khai của bà mẹ
hoặc sổ khám thai, được chia thành 2 nhóm: từ 10kg trở lên, dưới 10kg.
- Uống viên sắt, uống acid folic: có hay không và thời gian dùng là bao
lâu: từ 90 ngày trở lên, dưới 90 ngày [4].
- Chế độ ăn uống trong thời gian có thai: ghi nhận theo đánh giá chủ
quan của bà mẹ: ăn nhiều hơn bình thường, ăn ít hơn bình thường, ăn như
bình thường so với khi không mang thai.
- Chế độ lao động trong thời gian có thai: ghi nhận theo đánh giá chủ
quan của bà mẹ, gồm các mức độ: nghỉ ngơi hoàn toàn, làm việc nhẹ, làm
việc như bình thường, làm việc nhiều hơn bình thường so với khi không
mang thai.
- Nghỉ lao động trước khi sinh con: có nghỉ ngơi (nghỉ làm công việc
chính của mình trước khi sinh) hay làm việc bình thường. Được chia thành 2
nhóm: từ 30 ngày trở lên, dưới 30 ngày.
18
- Những biến động tâm lý trong thời gian mang thai: là những tác động
từ bên ngoài làm thai phụ lo lắng, bất an. Được ghi nhận theo đánh giá chủ
quan của bà mẹ.
- Khoảng cách sinh: là khoảng cách từ lần sinh trước đến lần sinh
này, chỉ thu nhận ở những bà mẹ sinh con lần thứ 2 trở lên, được tính bằng
tháng kể từ ngày sinh. Được chia thành các nhóm: dưới 24 tháng, từ 24
tháng trở lên [25].
-Tuổi thai khi sinh: được ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, gồm 2
nhóm: sinh non (dưới 37 tuần), đủ tháng (37 tuần đến dưới 42 tuần), già tháng
(42 tuần trở lên).
- Giới của trẻ: 2 nhóm: nam, nữ.
- Nơi sinh của trẻ: ghi nhận theo lời khai bà mẹ, gồm: sinh tại nhà, trạm
y tế, bệnh viện huyện, bệnh viên tỉnh, bệnh viện Trung ương.
- Tình trạng lúc sinh: là tình trạng sức khỏe của trẻ lúc sinh ra như: dị
dạng bẩm sinh, nhiễm trùng bào thai, sinh non tháng, nhẹ cân.
- Cách sinh trẻ: ghi nhận theo lời khai của bà mẹ gồm sinh có can thiệp
và sinh tự nhiên.
- Thứ hạng sinh: bà mẹ sinh con so, con rạ không tính sẩy thai hoặc
thai lưu.
2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
Số liệu được thu thập và hoàn thiện trước khi nhập vào máy tính bằng phần
mềm Epidata 3.1. Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0.
Số liệu được phân tích qua 2 bước:
2.5.1. Thống kê mô tả
- Sử dụng các bảng tần suất để tính toán số lượng phần trăm cho các biến
số định tính.
19
- Sử dụng các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, giá trị
lớn nhất và khoảng tin cậy 95% để mô tả các giá trị của biến định lượng.
- Sử dụng biểu đồ cột để thể hiện kết quả nghiên cứu.
2.5.2. Thống kê suy luận
- Sử dụng khoảng tin cậy 95% để ngoại suy ra cho quần thể các đặc tính
nghiên cứu.
- Để so sánh hai biến định tính, Chi-square test và Fisher’s exact test với
trên 1 ô có tần số quan sát <5.
- Phân tích hồi quy logistic:
+Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về bà mẹ với cân nặng sơ
sinh của trẻ, các kết quả phân tích đơn biến có p<0,05 được đưa vào phân tích
hồi quy logistic đa biến và rút ra kết luận sau khi phân tích đa biến.
+ Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về trẻ với cân nặng sơ
sinh, các kết quả phân tích đơn biến có p<0,05 được đưa vào phân tích
logistic đa biến, và rút ra kết luận sau khi phân tích đa biến.
+ Tỷ số chênh OR (Odds ratio) và khoảng tin cậy 95% của OR để kiểm
soát yếu tố nhiễu và thể hiện mức độ liên quan giữa CNSS và các biến dự
báo khác.
2.6. KIỂM SOÁT SAI LỆCH THÔNG TIN
Sai số nhớ lại của bà mẹ là một trong những yếu tố làm sai lệch thông tin
cần được xét đến trong đề tài, nhằm hạn chế sai số, trong nghiên cứu của
chúng tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
- Giới hạn thời gian từ lúc sinh trẻ đến thời điểm nghiên cứu tối đa là
1 năm.
- Khuyến khích gợi nhớ cho bà mẹ, kiểm tra phiếu khám thai nếu những
bà mẹ còn giữ.
20
- Các thông tin bà mẹ cung cấp được đối chiếu với thông tin ghi chép tại
trạm y tế phường Hương Long và cộng tác viên dân số của từng tổ dân phố.
Các phân tích đơn biến, đa biến, kiểm định các yếu tố gây nhiễu được
tiến hành trong quá trình phân tích số liệu.
2.7. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được sự chấp thuận của trường Đại học Y Dược Huế, và
trạm Y tế phường Hương Long, thành phố Huế.
Đối tượng tham gia nghiên cứu đã được giải thích và hiểu rõ ràng về
mục đích, những nội dung nghiên cứu và có quyền từ chối tham gia nghiên
cứu. Những thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi được thực hiện không
quá 15 phút, các thông tin được bảo mật nên không gây ảnh hưởng đến thể
chất, tinh thần của người được phỏng vấn.
Kết quả thu được từ nghiên cứu sẽ được cung cấp cho trạm y tế
phường Hương Long và là bằng chứng được cung cấp rộng rãi để các nhà
xây dựng chính sách, hoạt động y tế cũng như chính quyền địa phương có
thể tham khảo.