BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
——————————-
ISO 9001:2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH : VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
Sinh viên : Hà Thị Xuân Mỹ
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp
HẢI PHÒNG – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
———————————–
KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH
THIỆN NGUYỆN TẠI BẢN MỂN – XÃ THANH NƯA –
HUYỆN ĐIỆN BIÊN – TỈNH ĐIỆN BIÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH: VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
Sinh viên : Hà Thị Xuân Mỹ
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp
HẢI PHÒNG – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
————————————–
NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Sinh viên : Hà Thị Xuân Mỹ
Mã SV: 1412601086
Lớp : VH1802 Ngành: Việt Nam học (Văn hóa du lịch)
Tên đề tài: Khai thác và phát triển loại hình du lịch thiện nguyện tại bản Mển –
xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên
NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI
1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt
nghiệp
– Tổng quan về loại hình du lịch thiện nguyện bao gồm cơ sở lý luận,
những đặc trưng, các điều kiện để phát triển và ý nghĩa của loại hình du
lịch này với du lịch và cộng đồng.
– Tìm hiểu một số mô hình du lịch thiện nguyện đã thực thi ở Việt Nam và
trên thế giới, đồng thời rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
– Giới thiệu khái quát về bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh
Điện Biên và tiềm năng khai thác, phát triển du lịch thiện nguyện cũng
như thực trạng hoạt động du lịch tại địa bàn bản.
– Đề xuất các giải pháp, phương hướng khai thác, phát triển du lịch thiện
nguyện tại bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên
dựa trên những định hướng phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên và bản
Mển.
2. Các tài liệu, số liệu cần thiết
– Bài viết trên sách, báo, tạp chí cung cấp các thông tin liên quan đến lịch
sử hình thành và phát triển của loại hình du lịch thiện nguyện trên thế
giới và ở Việt Nam.
– Thông tin và số liệu trên các website của các tổ chức phi lợi nhuận trên
thế giới, ở Việt Nam và các công ty lữ hành.
– Số liệu báo cáo từ Cổng thông tin điện tử của tỉnh Điện Biên về tình hình
hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh và bản Mển – xã Thanh Nưa.
3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp: Trung tâm phát triển kỹ năng Smile
Địa chỉ: 372 Văn Cao – Phường Đằng Lâm – Quận Hải An – Hải Phòng
Số điện thoại liên hệ: 0974998809
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Họ và tên : Phạm Thị Hoàng Điệp
Học hàm, học vị : Thạc Sĩ
Cơ quan công tác : Khoa Du lịch Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
Nội dung hướng dẫn:
– Định hướng đề tài
– Hướng dẫn xây dựng đề cương chi tiết
– Hướng dẫn phương pháp làm nghiên cứu khoa học
– Đọc và chỉnh sửa nội dung khóa luận
Đề tài tốt nghiệp được giao ngày tháng năm 2018
Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 31 tháng 3 năm 2019
Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN
Sinh viên
Giảng viên hướng dẫn
Hà Thị Xuân Mỹ ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp
Hải Phòng, ngày …… tháng……..năm 2019
Hiệu trưởng
GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị
PHẦN NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp:
–
Có tinh thần cầu thị, ham học hỏi. Tích cực thu thập tài liệu để viết bài.
–
Chăm chỉ, chịu khó
–
Biết cách làm đề tài khoa học, biết cách phân tích và giải quyết vấn đề, đáp ứng được
yêu cầu do giáo viên đề ra.
–
Nộp và chỉnh sửa các chương đúng hạn theo yêu cầu của giáo viên.
2. Đánh giá chất lượng của khóa luận (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong
nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu…):
–
Đề tài đã trình bày tổng quan các vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến du lịch thiện
nguyện và điều kiện để phát triển loại hình du lịch này.
–
Khóa luận giới thiệu đa dạng các mô hình du lịch thiện nguyện ở một số quốc gia
trên thế giới và ở Việt Nam đã phát triển thành công và rút ra được những bài học
kinh nghiệm cần thiết.
– Giới thiệu khái quát về bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện
Biên, tình hình đời sống của cư dân địa phương tại bản, và tiềm năng khai thác,
phát triển du lịch thiện nguyện, cũng như thực trạng hoạt động du lịch trên địa
bàn bản trong bối cảnh hiện nay.
–
Đề xuất các giải pháp mang tính khả thi và các kiến nghị hợp lý nhằm khai thác, phát
triển du lịch thiện nguyện tại bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện
Biên trong tương lai.
3. Ý kiến của giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp
Được bảo vệ
Không được bảo vệ
Điểm hướng dẫn
Hải Phòng, ngày tháng năm 2019
Giảng viên hướng dẫn
ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp
MỤC LỤC
MỤC LỤC ………………………………………………………………………………………………. 5
PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH THIỆN NGUYỆN
.. 5
1.1.
Khái niệm Du lịch Thiện nguyện …………………………………………………….. 5
1.1.1.
Mối liên hệ giữa Du lịch và Thiện nguyện ……………………………………… 5
1.2. Sự hình thành và phát triển của du lịch Thiện nguyện
……………………….. 11
1.2.1.
Trên thế giới
………………………………………………………………………………. 11
1.2.2.
Ở Việt Nam
………………………………………………………………………………… 16
1.3. Những đặc trưng của du lịch Thiện nguyện ………………………………………. 26
1.3.1.
Đặc điểm của du lịch Thiện nguyện
……………………………………………… 26
1.3.2. Những điều kiện để phát triển du lịch Thiện nguyện
…………………………. 30
1.3.2.1. Điều kiện chung …………………………………………………………………………… 30
1.3.2.2. Điều kiện đặc trưng ……………………………………………………………………… 32
1.3.3. Ý nghĩa của du lịch Thiện nguyện …………………………………………………… 35
1.3.3.1. Đối với du lịch …………………………………………………………………………….. 35
1.3.3.2. Đối với cộng đồng
………………………………………………………………………… 37
1.4. Đánh giá về các chương trình du lịch Thiện nguyện đã thực hiện ở Việt
Nam ……………………………………………………………………………………………………….. 38
1.4.1.
Nhận xét chung
………………………………………………………………………….. 38
1.4.2.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ……………………………………………… 43
CHƯƠNG 2 TÌM HIỂU VỀ BẢN MỂN – XÃ THANH NƯA – HUYỆN ĐIỆN
BIÊN – TỈNH ĐIỆN BIÊN VÀ TIỀM NĂNG KHAI THÁC, PHÁT TRIỂN DU
LỊCH THIỆN NGUYỆN
………………………………………………………………………….. 47
2.1. Khái quát về tỉnh Điện Biên và bản Mển …………………………………………… 47
2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên
………………………………………………………. 47
2.1.1.1. Vị trí địa lý ………………………………………………………………………………….. 47
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
………………………………………………………………………… 47
2.1.2. Điều kiện lịch sử – dân cư
……………………………………………………………….. 49
2.1.2.1. Điều kiện lịch sử ………………………………………………………………………….. 49
2.1.2.2. Điều kiện dân cư, xã hội ……………………………………………………………….. 52
2.1.3. Tình hình đời sống hiện nay của cư dân địa phương tại bản Mển
………. 53
2.2. Tài nguyên du lịch tại bản Mển và tiềm năng phát triển du lịch Thiện
nguyện ……………………………………………………………………………………………………. 54
2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên ……………………………………………………………. 54
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
…………………………………………………………… 58
2.2.3. Tiềm năng phát triển du lịch Thiện nguyện………………………………………. 70
Tiểu kết chương 2 ………………………………………………………………………………….. 78
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, PHÁT TRIỂN
DU LỊCH THIỆN NGUYỆN TẠI BẢN MỂN – XÃ THANH NƯA – HUYỆN
ĐIỆN BIÊN – TỈNH ĐIỆN BIÊN ……………………………………………………………… 79
3.1. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Điện Biên và phương hướng xây dựng
sản phẩm du lịch Thiện nguyện ở bản Mển ………………………………………………. 79
3.1.1. Định hướng của nhà nước đối với du lịch tỉnh Điện Biên
………………….. 79
3.1.2. Định hướng của tỉnh Điện Biên
………………………………………………………. 81
3.1.3. Định hướng của xã Thanh Nưa ………………………………………………………. 83
3.1.4. Phương hướng xây dựng sản phẩm du lịch Thiện nguyện ở bản Mển … 84
3.1.4.1. Xây dựng sản phẩm du lịch Thiện nguyện ở bản Mển ……………………….. 85
3.1.4.2. Xây dựng mô hình cộng đồng địa phương tham gia làm du lịch
………….. 90
3.2. Giải pháp khai thác, phát triển du lịch Thiện nguyện ở bản Mển ……….. 95
3.2.1. Nâng cao nhận thức về du lịch Thiện nguyện …………………………………… 95
3.2.3. Giải pháp quảng bá và xúc tiến du lịch
…………………………………………… 101
3.2.5. Xây dựng một số chương trình du lịch Thiện nguyện tại bản Mển ……. 108
3.2.5.1. Dành cho đối tượng sinh viên ………………………………………………………. 108
Tiểu kết chương 3 ………………………………………………………………………………… 114
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………. 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………… 117
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………………………………. 121
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo kết quả rà soát hộ nghèo và cận nghèo năm 2017, được Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội công bố: cả nước vẫn còn 1.642.489 hộ nghèo trên tổng số
24.511.255 hộ dân, chiếm tỷ lệ 6,7%. Trong đó, số hộ nghèo về thu nhập là
1.423.912 hộ, số hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là 212.229
hộ. [67] Thông qua những số liệu thống kê trên cho thấy thực trạng hộ nghèo ở
Việt Nam hiện nay, và việc cần phải tìm ra nguyên nhân và giải pháp để thoát
nghèo, thay đổi đời sống. Đã có những nguyên nhân khách quan và chủ quan được
chỉ ra về lý do dẫn đến nghèo đói như: dư thừa lao động nông thôn, kinh tế phát
triển không bền vững, sự chênh lệch giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành
thị… Và một trong số những nguyên nhân quan trọng đã được chỉ ra đó là người
dân còn sống nhờ vào nông nghiệp, không chịu đổi mới và tự thoát nghèo. Từ
những nguyên nhân đã được chỉ ra đó, trong những năm gần đây bên cạnh những
chính sách của nhà nước hỗ trợ người nghèo, và những sự giúp đỡ từ các cá nhân,
tổ chức, thì việc cùng hướng tới mục tiêu song hành, hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là
định hướng người nghèo thay đổi đời sống, tạo ra công ăn việc làm, chuyển đổi
nghành nghề lao động thu nhập thấp sang việc tạo ra kinh tế ổn định là một giải
pháp quan trọng. Đồng hành và hỗ trợ người dân hướng tới mục tiêu đó, ngành du
lịch đã tạo ra hướng đi mới trong việc xây dựng những mô hình du lịch như du lịch
cộng đồng, kinh doanh du lịch từ các sản phẩm văn hóa truyền thống của người dân
địa phương, hay là phát triển du lịch địa phương kết hợp với cộng đồng… Cũng với
ý nghĩa đó, nhưng đi sâu, tập trung vào hỗ trợ người nghèo hơn cả đó là một loại
hình du lịch còn khá mới mẻ ở Việt Nam – Du lịch Thiện nguyện. Du lịch Thiện
nguyện ra đời, nhằm hướng đến giúp người dân thoát nghèo, mang đến cơ hội việc
làm, là cầu nối giữa những sự giúp đỡ với những vùng khó khăn, cùng với đó gắn
những hoạt động với trách nhiệm bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên và gắn liền
với giá trị con người.
2
Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước châu Âu, châu Mỹ, du lịch Thiện nguyện
đã xuất hiện từ lâu và trở thành phong trào mạnh mẽ. Các quốc gia phát triển về du
lịch nhanh chóng nắm bắt được xu hướng phát triển của du lịch và nhu cầu của thị
trường để phát triển du lịch Thiện nguyện thành một dòng sản phẩm chuyên nghiệp,
đa dạng trong hoạt động và đề cao yếu tố Thiện nguyện trong mỗi chuyến đi.
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên du lịch phong
phú, có tiềm năng để phát triển nhiều loại hình du lịch đa dạng khác nhau. Loại
hình Du lịch Thiện nguyện hướng tới mục tiêu là khai thác du lịch ở những nơi mà
có người dân còn nghèo, nhưng nơi đó cũng là nơi có tài nguyên thiên nhiên, giá trị
nhân văn, lịch sử, nét văn hóa truyền thống của cộng đồng đặc sắc song chưa được
khai thác phát triển du lịch. Việc thực thi loại hình du lịch này không chỉ phát triển
du lịch địa phương, mà còn tạo ra công ăn việc làm cho người dân, từ đó giúp
người dân thay đổi đời sống và thoát nghèo bền vững. Có thể nói, với những giá trị
lịch sử đặc biệt, những tài nguyên du lịch mang giá trị cao, có thuận lợi về vị trí địa
lý, và đặc biệt là cư dân các làng, bản ở đây còn gặp nhiều khó khăn, Điện Biên là
một trong những nơi có điều kiện phù hợp để phát triển du lịch nói chung và du
lịch Thiện nguyện nói riêng. Tuy nhiên, hoạt động du lịch ở Điện Biên đến nay vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế: chưa khai thác đúng các nguồn tài nguyên sẵn có, yếu
trong khâu tổ chức các hoạt động, chưa có những sản phẩm du lịch đặc sắc… Nhận
thấy được vai trò của việc khai thác các tài nguyên phục vụ cho du lịch sẽ giúp thay
đổi đời sống của người dân và tiềm năng phát triển du lịch, đặc biệt là ý nghĩa nhân
văn của loại hình du lịch Thiện nguyện, người viết đã lựa chọn một bản của tỉnh
Điện Biên để triển khai đề tài “Khai thác và phát triển loại hình du lịch Thiện
nguyện tại bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên” cho bài
khóa luận tốt nghiệp của mình với mong muốn đem lại cái nhìn toàn diện về du lịch
Thiện nguyện và góp phần phát triển loại hình du lịch này, qua đó góp phần thay
đổi đời sống người dân theo hướng bền vững tại đây.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
3
Du lịch Thiện nguyện, là loại hình du lịch còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nên
việc nghiên cứu đề tài “Khai thác và phát triển loại hình du lịch Thiện nguyện ở
bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên”, bước đầu đưa ra
những tìm hiểu về cơ sở lý luận của loại hình du lịch Thiện nguyện, cung cấp thông
tin, và đưa ra những đánh giá về mô hình du lịch Thiện nguyện đã được triển khai
trên thế giới và ở Việt Nam.
Mục đích chính của đề tài là khai thác và phát triển loại hình du lịch Thiện
nguyện ở bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên, trên cơ sở
tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, đánh giá tiềm năng khai thác du lịch
Thiện nguyện và tình hình phát triển du lịch, từ đó đưa ra một số định hướng và
giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch mới mẻ này, cũng góp phần tạo cơ hội
việc làm, nâng cao đời sống, tạo điều kiện thoát nghèo cho cộng đồng địa phương.
Đồng thời, thông qua đề tài này, người viết hy vọng từ những đánh giá và giải pháp
đó sẽ là ý tưởng để xây dựng, phát triển loại hình du lịch mới, tạo ra được những
giá trị từ hình thức du lịch này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Loại hình du lịch Thiện nguyện tại bản Mển – xã Thanh
Nưa – huyện Điện Biên.
Phạm vi nghiên cứu: bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Là phương pháp được sử dụng nhiều
trong bài khóa luận. Trên cơ sở thu nhập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như:
sách, báo, đài, tivi, tạp chí, internet… từ đó chọn lọc, xử lý các thông tin và đưa ra
những đánh giá, nhận xét ban đầu về vấn đề nghiên cứu, cụ thể là loại hình du lịch
Thiện nguyện tại bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Phương pháp này giúp định hướng,
thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh
4
hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so
sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực
hiện các mục tiêu dự báo, các định hướng và giải pháp phát triển du lịch trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
đề tài được kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về loại hình du lịch Thiện nguyện
Chương 2: Tìm hiểu về bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên và tiềm
năng khai thác, phát triển du lịch Thiện nguyện
Chương 3: Định hướng và giải pháp khai thác, phát triển du lịch Thiện nguyện
tại bản Mển – xã Thanh Nưa – huyện Điện Biên
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH THIỆN NGUYỆN
1.1. Khái niệm Du lịch Thiện nguyện
1.1.1. Mối liên hệ giữa Du lịch và Thiện nguyện
Để đưa ra những đánh giá cũng như xây dựng và định hướng một mô hình du
lịch đạt được tính hiệu quả cao, trước hết, cần phải chỉ ra được mối liên hệ giữa 2
yếu tố trong mô hình du lịch. Có thể nói giữa du lịch và Thiện nguyện có mối liên
hệ tương tác, hỗ trợ chặt chẽ. Du lịch dựa vào Thiện nguyện và ngược lại Thiện
nguyện cần có du lịch để phát triển, lan tỏa được những ý nghĩa tốt đẹp.
Đầu tiên, để thấy được mối liên hệ và tương tác đó, cần đưa ra được khái
niệm cơ bản của 2 yếu tố Du lịch và Thiện nguyện:
Theo khoản 1 điều 3, Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích
hợp pháp khác.” [6]
Đối với khái niệm Thiện nguyện, không có định nghĩa cụ thể, vì thế ở đây sẽ
đưa ra 2 trong số các quan điểm về vấn đề này. Theo thành viên của CLB Thiện
nguyện Sống Xanh chia sẻ: “Bản chất cốt lõi của Thiện nguyện là “cho”. Phân tích
theo khía cạnh kinh tế học, đây có thể xem như việc chúng ta đi phân bố lại các
nguồn lực của xã hội. Đơn giản hơn, Thiện nguyện là việc chúng ta mang những
giá trị vật chất và tinh thần, đến với các hoàn cảnh khó khăn trong xã hội.”. “Thiện
nguyện là tự nguyện làm vì điều tốt. Hành động trợ giúp người yếu kém, thông qua
nhiều những hình thức, xuất phát từ cá nhân, tập thể, hay cộng đồng” trích dẫn từ
Wikipedia. [7,8]
Trên cơ sở định nghĩa, khái niệm về du lịch và Thiện nguyện, nhận định được
mối liên hệ cơ bản ban đầu giữa 2 yếu tố. Có thể thấy được quy mô, các hoạt động
của du lịch được đáp ứng rất đa dạng cho mọi nhu cầu của đối tượng khách từ tham
6
quan, giải trí, khám phá, tìm hiểu… Từ cơ sở đó, giúp cho ngành du lịch có sự thay
đổi, phát triển đáng kể, và tạo ra được các thành tựu rõ ràng trong nhiều năm qua.
Song, trong xu thế phát triển du lịch mới của toàn cầu hiện nay, với hệ quả tất yếu
của một xã hội không ngừng nghỉ, đòi hỏi việc thoát khỏi bản chất đồng nhất của
các sản phẩm du lịch truyền thống và tìm kiếm sự trải nghiệm du lịch bản địa, và
tạo ra cân bằng giữa du khách và cộng đồng địa phương, từ đó hỗ trợ, phát triển xã
hội. Thông qua đây có thể thấy được mặt hạn chế, thiếu sót của các sản phẩm du
lịch truyền thống: không thể đồng thời đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và khách du
lịch; tập trung vào du khách, hạn chế phát triển cộng đồng. Vì vậy, để thay đổi,
định hướng theo xu thế mới của du lịch, các cách thức du lịch khác được xây dựng.
Trong số đó có việc kết hợp giữa du lịch và Thiện nguyện, đi du lịch để khám phá,
tìm hiểu, tham gia trải nghiệm và làm công tác, hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ cộng
đồng địa phương và điểm đến, từ đó, tạo ra loại hình du lịch Thiện nguyện, có sự
tương tác với nhau. Thiện nguyện giúp cho du lịch phát triển kinh tế, tạo ra hướng
đi mới, nắm bắt theo xu thế cho ngành du lịch, ngược lại, khi có du lịch thì các hoạt
động Thiện nguyện được lan tỏa rộng rãi, hỗ trợ cộng đồng thay đổi đời sống, thoát
nghèo, kinh tế phát triển ổn định.
Trong hướng phát triển du lịch của thế hệ mới đã được nhắc đến ở trên, tập
trung vào xã hội, cộng đồng nhiều hơn. Những hướng đi đó thể hiện rõ trong loại
hình du lịch Thiện nguyện, mang đến phát triển bền vững cho du lịch, tạo ra được
tính trách nhiệm với việc bảo vệ sử dụng các nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất, hạ
tầng, các giá trị văn hóa được bảo tồn. Thiện nguyện mang đến cho du lịch một
hướng phát triển mới, song hành với cộng đồng địa phương và những yếu tố nhân
văn, gắn kết cộng đồng nhiều hơn. Mang những giá trị sâu sắc của Thiện nguyện
lan tỏa hơn thông qua du lịch theo một hướng riêng. Du lịch giúp phát triển hơn các
hoạt động, ý nghĩa của Thiện nguyện từ trước đến nay, làm thay đổi Thiện nguyện,
không chỉ là thụ động giúp đỡ, mà còn tạo ra sự chủ động cho những người được
nhận sự giúp đỡ.
7
Phát triển du lịch Thiện nguyện mang đến cho những địa phương và vùng
khó khăn có tài nguyên du lịch, nguồn lợi kinh tế, tạo ra cho người dân địa phương
có thể thay thế từ các công việc nông nghiệp, với thu nhập bấp bênh, chuyển làm
du lịch với nguồn thu nhập cao, thoát nghèo, phát triển bền vững, từ những dịch vụ
phục vụ cho du lịch, như: lưu trú, ăn uống, kinh doanh sản phẩm truyền thống, đồ
lưu niệm… Thêm nữa, thông qua công tác hoạt động Thiện nguyện giúp tìm kiếm,
khai thác được những tài nguyên, điểm du lịch sẵn có của nhiều nơi, mà vẫn chưa
được biết đến, và quảng bá hình ảnh về văn hóa, đời sống của người dân, các dân
tộc còn lưu giữ lại được nét truyền thống.
1.1.2. Khái niệm
Phong trào du lịch Thiện nguyện bắt nguồn rất từ rất sớm ở các nước châu
Âu. Loại hình du lịch này là sự kết hợp của nhiều hoạt động song song tham quan,
khám phá, giúp đỡ cộng đồng, bảo vệ môi trường… Do đó, khi nói đến loại hình du
lịch này có không ít quan điểm không đồng nhất về khái niệm, phụ thuộc vào cách
tiếp cận và cách thức tổ chức du lịch của từng quốc gia, công ty. Ban đầu người ta
định nghĩa nó đơn giản là hình thức khách du lịch dành thời gian và tiền bạc đi tới
những nơi mà người dân còn khó khăn hay các trung tâm bảo trợ xã hội để giúp đỡ
và trải nghiệm cuộc sống ở nơi đó.
Trong tiếng Anh, có nhiều thuật ngữ để chỉ du lịch Thiện nguyện như:
Volunteer tourism, Voluntourism, Volunteer holidays, Volunteer vacation…Khi
mà trào lưu du lịch Thiện nguyện phát triển mạnh mẽ thì nhiều tổ chức, cá nhân đã
đưa ra những định nghĩa khác nhau, phát triển hơn định nghĩa ban đầu về loại du
lịch này. Dưới đây là một số những định nghĩa tiêu biểu của du lịch Thiện nguyện:
Đầu tiên là một số những quan điểm của những nhà du lịch học phương Tây.
Mc Gehee cho rằng: “Du lịch Thiện nguyện là những cá nhân sử dụng thời gian và
tiền bạc đi du lịch để giúp đỡ cộng đồng khác đang gặp khó khăn”. Còn theo
Stephen Wearing, trong bài nghiên cứu “Volunteer tourism – A experience that
8
make a difirence”, định nghĩa rõ hơn “đó là những cá nhân với nhiều lý do khác
nhau, có thể tham gia vào một tổ chức, hay nhóm (xã hội) sử dụng kỳ nghỉ của
mình để giúp đỡ một cộng đồng, một nhóm xã hội nào đó cả về mặt vật chất hoặc
giảm thiểu những ảnh hưởng của thiên tai gây ra cho cộng đồng đó.” Ông cũng bổ
sung thêm trong bài viết này “Du lịch Thiện nguyện là hiện tượng kết hợp du lịch
với Thiện nguyện, áp dụng cho những du khách vì nhiều lí do, thực hiện các chuyến
đi nhằm mục đích hỗ trợ hoặc giảm nghèo đói về vật chất cho các nhóm trong xã
hội, bảo tồn một môi trường nhất định hoặc nghiên cứu các lĩnh vực xã hội và môi
trường”. Lyons lại phân biệt giữa khái niệm tình nguyện và du lịch Thiện nguyện.
Ông cho rằng tình nguyện viên là những người tự nguyện trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia giúp đỡ những cư dân đang gặp khó khăn trong cộng đồng mình sinh sống
và không vụ lợi, những Thiện nguyện viên được xem là những người đi du lịch
Thiện nguyện khi họ trực tiếp tham gia công tác Thiện nguyện cho một cộng đồng
nào đó ở một vùng khác trong quốc gia của mình sinh sống hay ở nước ngoài. [5,9]
Bên cạnh các nhà du lịch học phương Tây thì các tổ chức chính phủ và phi
chính phủ cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau cho du lịch Thiện nguyện. Theo
từ điển Wikipedia: “Du lịch Thiện nguyện là cơ hội cho mọi người tạo ra sự khác
biệt tích cực trong cuộc sống của những người khác hoặc giúp cải thiện và đóng
góp vào xã hội, văn hóa, hoặc môi trường khi đi du lịch. Nó cũng là cơ hội cho mọi
người ở hầu hết các lứa tuổi hòa mình vào cuộc sống đầy thách thức, trải nghiệm
nền văn hóa khác một cách trực tiếp và học hỏi nhiều hơn ở thế giới xung quanh.”
[10]
Trong bài “A better understanding of the TV experience” của một học giả
đến từ Đại học James Cook lại cho rằng: “Du lịch Thiện nguyện là loại hình du lịch
dựa trên những người đi du lịch trả tiền, làm việc cho các dự án xã hội và bảo tồn
trên toàn thế giới với mục đích du hành bền vững nhằm hỗ trợ phát triển cộng đồng
địa phương, nghiên cứu khoa học và bảo tồn hệ sinh thái.” [10]
9
Trang web riêng về Du lịch thiên nguyện – Voluntourism.org cũng đưa ra
một định nghĩa như sau: “Du lịch Thiện nguyện là sự lồng ghép giữa dịch vụ liên
quan đến Thiện nguyện ở điểm đến với các yếu tố truyền thống của lữ hành và du
lịch như nghệ thuật, văn hóa, địa lý, lịch sử và giải trí khi đang ở điểm đến.” [10]
Tổ chức Peace Corps, tổ chức được coi là nhà sáng lập ra loại hình du lịch
Thiện nguyện đưa ra định nghĩa về du lịch Thiện nguyện như sau: “Rất đơn giản,
du lịch Thiện nguyện là sự kết hợp của hai từ du lịch và Thiện nguyện. Du lịch
Thiện nguyện là sự tổng hợp những yếu tố tốt nhất của lữ hành và du lịch như nghệ
thuật, văn hóa, địa lý, các di sản, môi trường tự nhiên và giải trí với cơ hội để giúp
đỡ và thúc đẩy điểm đến bao gồm cư dân, điểm tham quan và các yếu tố khác nữa.”
[10]
Bên cạnh những quan điểm, ý kiến đưa ra của nhiều những nghiên cứu, nhà
du lịch học và các trang web uy tín trên thế giới, thì ở Việt Nam, khi du lịch Thiện
nguyện bắt đầu có xu hướng du nhập vào nước ta, đã có một số những quan điểm
đưa ra cho vấn đề “du lịch Thiện nguyện là gì?”, để phù hợp với hình thức, xu thế
phát triển ở đây.
Trong bài nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu phát triển bền vững (CSDS)
Việt Nam, đưa ra khái niệm: “Du lịch Thiện nguyện là hình thức khách du lịch
dành thời gian và tiền bạc cho trách nhiệm bảo vệ môi trường và phát triển cộng
đồng”. Ba dòng sản phẩm chính của du lịch Thiện nguyện theo dự án Humani Tour
của Trung tâm này đưa ra dự kiến là: “Du lịch sinh thái, Du lịch từ thiện và Du lịch
Thiện nguyện. Trong đó Du lịch sinh thái là hình thức du lịch gắn với trách nhiệm
bảo vệ môi trường, phù hợp với những du khách yêu thích các hoạt động bảo vệ
môi trường; Du lịch từ thiện là hình thức hình thức khách du lịch trực tiếp tới thăm
các trung tâm bảo trợ xã hội và làm từ thiện dưới hình thức đóng góp tiền cho
trung tâm; Du lịch Thiện nguyện là hình thức khách du lịch đi thăm và trải nghiệm
hoạt động ở điểm vùng khó khăn, giúp đỡ dưới hình thức quyên đồ, dành thời gian
10
tham gia, làm các hoạt động Thiện nguyện tại điểm đến.” Việc phân chia du lịch
Thiện nguyện thành 3 dòng sản phẩm chính nhằm chỉ ra sự khác biệt, nhận định
được rõ ràng khái niệm, định nghĩa về loại hình du lịch Thiện nguyện của trung
tâm này. [11]
Bài viết “Mô hình du lịch Thiện nguyện thâm nhập Việt Nam” của trang web
baodautu.vn, đưa ra quan điểm: “Du lịch kết hợp Thiện nguyện hay du lịch có
trách nhiệm (responsible tourism) là một hướng đi mới trong những năm gần đây.
Đó là các dự án Thiện nguyện vì thiên nhiên, vì cộng đồng có kết hợp với du lịch
tại địa phương. Loại hình du lịch này đang được các cá nhân, tổ chức thực hiện.
Du lịch kết hợp Thiện nguyện là một sản phẩm độc đáo, mang đến giá trị nhân văn
trong xã hội, tạo sự gắn kết với cộng động.” [11]
Từ các quan điểm trên, người viết nhận thấy rằng quan điểm phù hợp, sát
nhất với mô hình phát triển du lịch Thiện nguyện tại Việt Nam hiện nay là của tổ
chức Peace Corps. Bởi vì, bản chất của du lịch Thiện nguyện là một lát cắt của
ngành du lịch. Đây là loại hình du lịch mới được nảy sinh trong quá trình tham gia
các hình thức du lịch khác của khách du lịch như: du lịch tham quan, nghỉ dưỡng,
khám phá, du lịch tôn giáo… Hình thức Thiện nguyện chủ yếu tập trung vào hoạt
động cứu tế an sinh, các hoạt động xã hội khác ít phát triển hơn do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Khác với hình thức này ở phương Tây, các Thiện nguyện viên ở
Việt Nam thường phải thông qua một tổ chức “Du lịch Thiện nguyện” và khi muốn
thực hiện các hoạt động sẽ phải bỏ kinh phí ra để mua một chương trình trong đó
các dịch vụ, lịch trình, để có được một sản phẩm du lịch Thiện nguyện tùy theo yêu
cầu của khách hàng. Các khách du lịch khi tham gia vào các chương trình du lịch
Thiện nguyện đều có mục đích rõ ràng khi đến một nơi nào đó để giúp đỡ những
cộng đồng khó khăn, những hình thức du lịch kết hợp khác được xem như nhu cầu
thiết yếu. Vì vậy, hiện nay hình thức du lịch Thiện nguyện ở Việt Nam được khai
thác từ yếu tố du lịch như tự nhiên, văn hóa, các di sản… tại các điểm du lịch có
11
người dân gặp khó khăn, tạo ra cho họ cơ hội việc làm, thúc đẩy thay đổi đời sống
dân cư địa phương, tạo các điểm tham quan mới.
1.2. Sự hình thành và phát triển của du lịch Thiện nguyện
1.2.1. Trên thế giới
Trở lại giai đoạn đầu của du lịch trong lịch sử, vào thế kỷ 16, các hoạt động
ngoại giao kinh doanh, đặc biệt là nhu cầu học tập nâng cao hiểu biết phát triển
mạnh tại các nước phát triển ở châu Âu. Nhiều gia đình quý tộc đã tham gia các
tour du lịch dài tới 3 năm đến các thành phố nổi tiếng của châu Âu để nâng cao
hiểu biết. Các hành trình này được gọi là Grand Tour. Hiện tượng “Grand Tour”
này đã chứng minh một cách rõ ràng về sự phát triển thời kỳ đầu của du lịch quốc
tế. Tuy nhiên, cũng chính từ đây động cơ du lịch bắt đầu thay đổi. Cảnh đẹp và
thiên nhiên ở những vùng họ đến đã khiến cho du lịch từ mục đích học tập và văn
hóa đã dần dần nhường chỗ cho du lịch vì mục đích thư giãn và ngắm cảnh. [11]
Từ những năm 1770 của cách mạng công nghiệp, nhu cầu giải trí ngày càng
tăng, dẫn đến nhu cầu về phương tiện giao thông để thực hiện chuyến đi cũng tăng.
Theo sau những tiến bộ, phát triển của giao thông như đường sắt, đường biển,
đường bộ, bản chất của du lịch cũng thay đổi nhanh chóng. Ngay cả ngành hàng
không được phục vụ rộng rãi vào mục đích du lịch, giải trí… du lịch nhanh chóng
trở thành hàng hóa bị bán cho khách du lịch tiềm năng đang ngày càng gia tăng về
số lượng. [11]
Thuật ngữ “du lịch đại chúng” (mass tourism) hay còn được gọi dưới cái tên
là du lịch ồ ạt, được ra đời vào ngày 7-5-1941 khi chuyến đi bằng tàu hỏa đầu tiên
do Thomas Cook thực hiện đã đi từ ga Leicester đến miền Bắc nước Anh. Từ thời
điểm đó, du lịch đã phát triển từ chỗ dành riêng cho quý tộc trở thành hoạt động
dành cho hàng chục người trên toàn cầu. Đến thế kỷ 19, du lịch ngày càng phát
triển, khách du không còn phải đối mặt với khó khăn khi gặp và tiếp xúc với cộng
đồng bản địa bởi họ có thể nhìn ngắm qua chiếc xe ô tô an toàn và ở trong khách
sạn mà không ảnh hưởng gì đến cư dân. Quy mô các nhóm và tần suất các chuyến
12
đi tăng lên, từ đó dần xuất hiện cụm từ “du lịch đại chúng”. Sự xuất hiện ồ ạt của
du lịch quốc tế đã thể hiện qua lượng khách quốc tế toàn cầu tăng xấp xỉ 25,3 triệu
năm 1950 đến 625 năm 1998 (UWTO,1999). Năm 1998, thu nhập từ du lịch đạt
mức 445 triệu USD (UWTO,1999). Ngành du lịch thu hút 200 triệu lao động trên
toàn thế giới, năm 1999 chiếm 11% tổng sản phẩm quốc nội cùa thế giới. [11]
Những ảnh hưởng của du lịch đại chúng đến môi trường sinh thái cũng như
đời sống xã hội đó chính là một lý do cơ bản dẫn đến sự xuất hiện của du lịch thay
thế (hay du lịch theo nhóm nhỏ). [11]
Du lịch thay thế (alternative tourism) còn gọi dưới nhiều cái tên khác nhau
như du lịch lựa chọn, du lịch cân nhắc… là đặc trưng của du lịch ở nửa sau thế kỷ
20. Du khách bắt đầu tìm kiếm loại hình du lịch mới, để thay đổi, bổ sung và đưa ra
những lựa chọn để giải quyết vấn đề của du lịch đại chúng trong thời gian trước đó.
Quan trọng hơn là xã hội đã nảy sinh nhu cầu cao hơn. Sự xuất hiện du lịch thay
thế là tiền đề cho những loại hình khác phát triển, trong đó loại hình du lịch Thiện
nguyện là một trong số mô hình du lịch này. Vào thời điểm khi du lịch thay thế
phát triển, đã có sự đột phá định hình thay đổi hướng đi mới cho du lịch truyền
thống, hay du lịch đại chúng sang việc phát triển du lịch đồng thời hỗ trợ, giúp đỡ
giải quyết các vấn đề khó khăn của người dân, làm thay đổi xã hội tốt đẹp hơn.
Xuất phát ban đầu của ý tưởng này, từ các hoạt động trong phong trào vị tha và
truyền giáo của thế kỷ 19, lấy động lực chính của phong trào này để kiềm chế sự
phân chia giai cấp rõ ràng trong xã hội. Theo thời gian, các tổ chức khác nhau được
thành lập để giải quyết các vấn đề và tạo ra lợi ích xã hội. Để hưởng ứng phong
trào này, trong thời điểm đó, nhiều công ty, tổ chức đã dành ra thời gian cho công
nhân, nhân viên của mình tham gia vào các hoạt động xã hội như Hội Chữ thập đỏ.
Đến cuối thế kỷ 20, là thời gian mà thay đổi, định hình một cách rõ ràng cho ý
tưởng kết hợp giữa Thiện nguyện và du lịch quốc tế. Manh nha ban đầu từ rất lâu
trước đó, các nhà truyền giáo, bác sĩ, thủy thủ, nhà thám hiểm, vô số những người
khác đã đi đến nhiều những nơi khác nhau, thực hiện hoạt động giúp đỡ cho người,
13
địa điểm khó khăn, trong mỗi chuyến đi đó họ cũng sử dụng rất nhiều những dịch
vụ như lưu trú, vận chuyển, ăn uống… Bước đệm tiếp theo cho việc phát triển du
lịch Thiện nguyện trên thế giới là tổ chức Peace Corps (Mỹ), do thượng nghị sĩ, sau
là tổng thống Mỹ John Kenedy vào năm 1960 đề ra. Kenedy đã kêu gọi các sinh
viên của trường đại học Michigan phục vụ cho đất nước vì mục đích hòa bình bằng
cách sống và làm việc tại các nước đang phát triển. Từ đó trở đi, tổ chức này đã trở
thành cơ quan của chính phủ Liên bang cống hiến vì hòa bình và hữu nghị trên thế
giới. [4,11]
Tổ chức này đã mở đầu rất nhiều các phong trào như theo học các ngành dịch
vụ vào năm 1965, sự bùng nổ của du học nước ngoài vào thập niên 70, du lịch
Thiện nguyện và trách nhiệm vào những năm 90. Hơn 139 quốc gia đã mời trên
190.000 tình nguyện của Peace Corp tới làm việc với các vấn đề như giáo dục về
HIV – AIDS hay công nghệ thông tin và bảo vệ môi trường. Các thành viên của
Peace Corp còn giúp đỡ cho vô số các cá nhân muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn cho
bản thân họ, con cái và chính cộng đồng của họ nữa. [11]
Đến năm 1980, được coi là bước ngoặt quan trọng cho việc khẳng định rõ
ràng loại hình du lịch Thiện nguyện. Ban đầu, là những khái niệm về du lịch đề cao
tính trách nhiệm với xã hội như du lịch sinh thái, du lịch có trách nhiệm và du lịch
bền vững đã xuất hiện như là sự thay thế cho du lịch đại chúng. Các phương tiện
truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc bắt đầu thực hiện các công tác khai
thác tài nguyên và tìm hiểu về cộng đồng, những vấn đề khó khăn của họ, và kết
hợp cùng với sự thành công của các sáng kiến quốc tế, như sự tiếp xúc toàn cầu của
Band Aid Live Aid, tìm hiểu, quảng cáo cho công tác Thiện nguyện. Từ những hoạt
động đó, sự chú ý ngày càng tăng cao đối với các hoạt động thiện chí, Thiện
nguyện và các công việc kết hợp với du lịch khám phá, tìm hiểu, xây dựng các định
nghĩa rõ ràng cho du lịch Thiện nguyện. Ban đầu, có nhiều hơn các tổ chức Thiện
nguyện đã hợp tác với các công ty lữ hành để tạo ra những kỳ nghỉ vừa kết hợp gây
quỹ, làm công việc tốt cho xã hội, cộng đồng và vừa phiêu lưu. [4]
14
Du lịch thiện nguyện chỉ thực sự trở nên phát triển với sự xuất hiện và ra đời
hàng loạt mô hình hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận, điển hình như:
Tổ chức WWOOF
Tên đầy đủ của tổ chức là “Working Weekends On Organic Farms”, có nghĩa
là “Cuối tuần làm việc tại các trang trại hữu cơ”. WWOOF ra đời ở Anh, vào mùa
thu năm 1971 do Sue Coppard sáng lập. WWOOF hiện tồn tại ở 132 quốc gia (và
đang phát triển) trên toàn thế giới. Mục đích của tổ chức: Là để cung cấp cho các cá
nhân từ khắp nơi trên thế giới cơ hội để có được trải nghiệm trực tiếp về canh tác
và làm vườn hữu cơ, giúp đỡ bất cứ khi nào cần thiết; vào nông thôn và trải nghiệm;
giúp phong trào hữu cơ, thường tốn nhiều công sức và không phụ thuộc vào phân
bón nhân tạo và thuốc trừ sâu; liên lạc với những người khác trong phong trào hữu
cơ; để trao đổi văn hóa với người dân địa phương. [17,18 ]
Tổ chức International Volunteer HQ
Tổ chức International Volunteer HQ (gọi tắt là IVHQ) được thành lập vào
ngày 26 tháng 7 năm 2007, bởi Giám đốc điều hành Dan Radcliffe, sau một chuyến
đi nước ngoài du lịch bụi và tình nguyện ở châu Phi. [20]
Kể từ khi ra mắt vào năm 2007, IVHQ đã trở thành tổ chức du lịch thiện
nguyện hàng đầu trên thế giới, hoạt động tại hơn 40 quốc gia trên toàn thế giới.
Mục đích của tổ chức: Tổ chức IVHQ nỗ lực để tạo và chạy các chương trình đạo
đức, ưu tiên nhu cầu của cộng đồng và bảo vệ trẻ em. Các thiện nguyện viên sẽ
được phát triển nhận thức và hiểu biết đa văn hóa và thúc đẩy quyền công dân toàn
cầu; cung cấp trải nghiệm hòa nhập văn hóa, thông qua cách sống và làm việc với
người dân địa phương, cộng đồng, tổ chức và gia đình. [20,21]
Một số dự án của tổ chức đã thực hiện như: Dự án Giáo dục môi trường ở
Ecuador, tập trung giáo dục cộng đồng địa phương, cả trẻ em và người lớn, về các
kỹ thuật phục hồi và bảo tồn môi trường sống địa phương đồng thời thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và xã hội; Dự án Phát triển Cộng đồng cung cấp cho các tình
nguyện viên cơ hội hỗ trợ duy trì, dọn dẹp và cải tạo các trường học địa phương,
15
dạy toán mầm non, viết, đọc và các bài học nghệ thuật…, trong những ngày cuối
tuần (Thứ Bảy đến Thứ Hai), các tình nguyện viên có thời gian rảnh rỗi và thường
chỉ thư giãn hoặc tận dụng cơ hội để khám phá các khu vực khác của bờ biển
Ecuador, Guayaquil và Ecuador, các công viên quốc gia tuyệt vời, lặn biển Salango,
tham quan Đảo Bạc và những bãi biển tuyệt đẹp của Los Frailes, các chuyến du
ngoạn trong rừng…; Dự án Phát triển cộng đồng ở Brazil, bao gồm dạy tiếng Anh,
chăm sóc trẻ em, phát triển cộng đồng, thể thao và các hoạt động du lịch phổ biến
bao gồm: thư giãn trên các bãi biển của Copacabana, leo núi Corcovado, thăm
tượng Chúa Cứu thế, bắt cáp treo lên núi Sugar Loaf, trekking ngựa và khám phá
động vật hoang dã ở vùng đầm lầy Pantanal, khám phá thác Iguaçu và trekking qua
Amazon; Dự án thiện nguyện ở thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, chương
trình bắt đầu vào mỗi thứ Hai hàng tháng. Thiện nguyện viên có thể chọn tình
nguyện trong khoảng thời gian từ 1 tuần đến 24 tuần. Với các hoạt động trong
chương trình, bao gồm: dạy tiếng Anh cho sinh viên đại học tại Thành phố Hồ Chí
Minh, hoạt động Chăm sóc nhu cầu đặc biệt – sẽ làm việc trong các bệnh viện và
phòng khám cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, hỗ trợ cho trẻ em và thanh
thiếu niên, một số người bị ảnh hưởng bởi Chất độc Da cam…, cuối tuần dài có thể
được thực hiện những chuyến đi du lịch xa như tham gia các tour du lịch lịch sử
Việt Nam và thăm các ngôi đền và thăm đồng bằng sông Cửu Long. [20,21]
Theo tờ báo Marriott của Anh, trong 2 năm qua, các tour du lịch Thiện
nguyện đã trở thành một trong những loại hình du lịch phát triển nhanh nhất của thị
trường du lịch kỳ nghỉ ở đất nước này. Cùng với sự phát triển của thông tin liên lạc
toàn cầu, báo chí và các phương tiện truyền thông thì du lịch Thiện nguyện phát
triển hơn ở nhiều quốc gia. Hình thành nhiều hơn các mô hình du lịch từ các hoạt
động Thiện nguyện trên thế giới. Theo cuộc thăm dò của msnbc.com và Condé
Nast Traveler thì hơn phân nửa (55%) những người được phỏng vấn cho biết họ
thích tham gia vào loại hình du lịch kết hợp này. Và tài liệu cũng thống kê được:
trong số hơn 1,600 người được phỏng vấn thì 20% đã tham gia ít nhất một chuyến
16
du lịch như vậy và trong số những người chưa tham gia lần nào thì hai phần ba
(62%) nói có triển vọng họ sẽ tham gia một chuyến. Ngoài ra 95% người đã tham
gia cho biết rất có thể họ sẽ lại tham gia nữa. [11]
1.2.2. Ở Việt Nam
Du lịch Thiện nguyện xuất hiện từ khá sớm ở các nước trên thế giới, ở Việt
Nam gần chục năm trước đây khi xu hướng làm từ thiện phát triển mạnh, loại hình
này mới bắt đầu được manh nha. Tiền đề của du lịch Thiện nguyện là đề án “Phát
triển du lịch cộng đồng kết hợp xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn đến năm 2020” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ thướng
Chính phủ phê duyệt của Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch – đơn vị tham mưu
cho Tổng cục Du lịch. Đề án bắt nguồn từ sáng kiến ST-EP của Tổ chức Du lịch
thế giới, phù hợp với mục tiêu của quốc gia nghèo và quốc gia đang phát triển như
Việt Nam. Đây được coi là một nhiệm vụ quan trọng mà Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chủ trì để tiến tới cùng các Bộ ngành liên quan thực hiện các nhiệm vụ phát
triển du lịch vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng đời sống xã
hội, bảo vệ môi trường. [11]
Từ năm 2001, để góp phần xóa đói giảm nghèo, Tổ chức Phát triển quốc tế
của Hà Lan (SNV) phối hợp với sở du lịch một số tỉnh thực hiện “Chương trình du
lịch bền vững vì người nghèo” và Sa Pa được lựa chọn làm thí điểm. Tại Thừa
Thiên – Huế, SNV phối hợp với Sở Du lịch tỉnh đề ra nhiều chương trình thiết thực
và cụ thể với những nội dung chính nâng cao nhận thức về du lịch bền vững, xóa
đói giảm nghèo, quản lý Nhà nước về du lịch địa phương xây dựng mô hình du lịch
cộng đồng và quan hệ hợp tác giữa các bên liên đới trong du lịch. Với chương trình
này, SNV hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật cho các đối tác cấp tỉnh, huyện và cộng đồng để
xây dựng mô hình du lịch bền vững góp phần bảo tồn môi trường, văn hóa và phát
triển sinh kế cho người nghèo. [11]
Từ đề án đó, các hãng lữ hành bắt đầu nghiên cứu phát triển du lịch Thiện
nguyện. Một trong những doanh nghiệp lữ hành khai thác du lịch Thiện nguyện đầu
17
tiên ở Việt Nam, hiện nay vẫn hoạt động rất tích cực trong các chuyến du lịch
Thiện nguyện là “Saigon Star”. Thành lập vào năm 2006, ban đầu nhóm chỉ là một
câu lạc bộ tiếng Anh với các thành viên chủ yếu là sinh viên. Hình thức du lịch
Thiện nguyện được manh nha khi một số bạn nước ngoài sang Việt Nam tham quan
nên nhóm tổ chức tour lẻ trong nội thành và ngoại thành Sài Gòn. Sau những
chuyến đi này, nhóm bắt đầu thiết kế các tour đi xa hơn dành cho thành viên và
những người bạn nước ngoài kết hợp với các công việc Thiện nguyện. Tiêu biểu là
chuyến đi làng Lagray (Nha Trang), thăm và tặng quà cho 700 trẻ em dân tộc, trẻ
khiếm thính và một số bạn bị nhiễm HIV. [11]
Nhận thấy ở Sài Gòn có nhiều nhóm, câu lạc bộ âm thầm đang làm những
công việc Thiện nguyện, vì vậy nhóm du lịch Thiện nguyện Saigon Star đã thiết kế
những chuyến du lịch kết hợp với Thiện nguyện ở xa trung tâm thành phố, nơi cần
nhiều sự quan tâm hơn. Đây vừa là điều kiện để mọi người chia sẻ với những hoàn
cảnh khó khăn, vừa cùng có những trải nghiệm thú vị. Nét đẹp từ cách làm “2 trong
1” này đã được nhiều bạn trẻ hưởng ứng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này do có
nhiều vấn đề về lý luận, chính sách, sự cản trở từ phía địa phương, khó khăn trong
việc tìm hiểu nhu cầu thị trường và điểm đến, các công ty lữ hành tìm hiểu theo
kiểu thăm dò…, do đó, số lượng không nhiều, hoạt động nghèo nàn và thiên về hoạt
động Thiện nguyện. [11]
Dấu mốc đánh dấu cho sự chuyên nghiệp cách làm du lịch Thiện nguyện tại
Việt Nam là vào năm 2010 khi mà dự án du lịch Thiện nguyện Humanitour do
Trung tâm nghiên cứu phát triển bền vững (CSDS), là tổ chức phi lợi nhuận của
Việt Nam đã đăng ký tại Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA) và Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) thành lập tại Hà Nội vào năm
2009, được nhận Giải thưởng Doanh nhân xã hội bởi CSIP với dự án HumaniTour.
Từ thành công này, trung tâm phát triển mạnh du lịch theo hướng đa dạng hóa,
song song hai mục đích tham quan, khám phá và chia sẻ cộng đồng. Song hành
cùng với sứ mệnh giải quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam, tập trung vào các