LVTN-8677_Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa để phục vụ hoạt động du lịch

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
——————————-

ISO 9001:2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH : VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)

Sinh viên : Lê Thị Lan
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Thanh Hương

HẢI PHÒNG – 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
———————————–

KHAI THÁC VĂN HÓA TỘC NGƯỜI H’MONG Ở
SAPA ĐỂ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH: VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)

Sinh viên : Lê Thị Lan
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Thanh Hương

HẢI PHÒNG – 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
————————————–

NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP

Sinh viên: Lê Thị Lan

Mã SV: 1412601089
Lớp : VH1802
Ngành: Việt Nam học (Văn hóa du lịch)
Tên đề tài: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa để phục vụ hoạt
động du lịch.

NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI

1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt
nghiệp
– Về lý luận, tổng hợp và khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa để
phục vụ du lịch.
– Về thực trạng, tìm hiểu nét văn hóa tộc người H’mong tại Lào Cai , Sapa,
trong hoạt động phát triển du lịch.
– Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác văn hóa tộc
người H’mong để phục vụ du lịchtrong thời gian tới.
2. Các tài liệu, số liệu cần thiết
– Các tài liệu lý luận cơ bản về du lịch
– Các số liệu về kết quả thống kê thực trạng khai thác văn hóa tộc người
H’mong trong các năm từ 2010 tới 2018
3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp
– Tộc người H’mong ở Lào Cai – Sapa

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP

Họ và tên : Vũ Thị Thanh Hương
Học hàm, học vị : ThS
Cơ quan công tác : Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
Nội dung hướng dẫn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa để phục
vụ hoạt động du lịch

Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 15 tháng 10 năm 2018
Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 07 tháng 01 năm 2019

Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN
Sinh viên

Giảng viên hướng dẫn

Lê Thị Lan ThS. Vũ Thị Thanh Hương

Hải Phòng, ngày 08 tháng 01 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG

GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN TỐT NGHIỆP
Họ và tên giảng viên:
ThS. Vũ Thị Thanh Hương
Đơn vị công tác:
Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
Họ và tên sinh viên:
Lê Thị Lan Chuyên ngành: Văn hóa du lịch
Đề tài tốt nghiệp:
Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa để phục vụ hoạt
động du lịch
1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp

2. Đánh giá chất lượng của khóa luận

3. Ý kiến của giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp
Được bảo vệ
Không được bảo vệ
Điểm hướng dẫn

Hải Phòng, ngày 07 tháng 01 năm 2019

Giảng viên hướng dẫn

ThS. Vũ Thị Thanh Hương
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………….. 1
1. Lí do chọn đề tài
…………………………………………………………………………………. 2
Chương 1
……………………………………………………………………………………………… 5
Cơ sở lí luận về Văn Hóa, Du lịch ………………………………………………………….. 5
1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa tộc người………………………………………….. 5
1.1
Khái niệm về văn hóa
……………………………………………………………………… 5
1.1.2. Định nghĩa văn hóa ……………………………………………………………………… 6
1.1.3. Đặc trưng và chức năng của văn hóa ……………………………………………… 8
1.1.4. Khái niệm về tộc người và văn hóa tộc người
………………………………….. 9
1.1.4.1. Khái niệm ……………………………………………………………………………….. 9

Khái niệm về tộc người: …………………………………………………………………….. 9
4. Các bài học kinh nghiệm trong khai thác văn hóa tộc người trên thế giới và
Việt Nam …………………………………………………………………………………………….. 24
Tiểu Kết Chương 1
……………………………………………………………………………….. 33
Chương 2
……………………………………………………………………………………………. 34
Thực trạng Văn hóa tộc người H’mong ở Lài Cai Sapa…………………………. 34
2.1. Lịch sử hình thành tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai ………………………… 34
2.2 Điều kiện kinh tế – xã hội …………………………………………………………………. 35
2.2.1. Thực trạng về kinh tế tộc người H’mong…………………………………………. 35
2.2.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng du lịch…………………………………………………….. 36
2.2.3. Thực trạng văn hóa, xã hội tộc người H’mông …………………………………. 37
2.2.4
Thực trạng hoạt động du lịch ở Sapa…………………………………………….. 39
2.2.4.2 Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch Sa Pa:….. 41
2.3. Văn hóa tộc người H’mong ở Sapa …………………………………………………… 42
2.3.1. Văn Hóa vật thể …………………………………………………………………………… 42
2.3.2 Văn hóa phi vật thể:
………………………………………………………………………. 46
2.3.2.1. Ngôn ngữ – chữ viết:
………………………………………………………………….. 46
2.3.2.2. Phong tục tập quán ……………………………………………………………………. 47
2.3.2.3. Lễ hội………………………………………………………………………………………. 56
2.3.2.4 Văn hóa ẩm thực
………………………………………………………………………… 60
2.4 Các loại hình du lịch khai thác văn hóa tộc người H’mong
……………………. 62
Tiểu kết chương 2
…………………………………………………………………………………. 64
Chương 3
……………………………………………………………………………………………. 65
Một số giải pháp giữ gìn và khai thác hiệu quả những giá trị văn hóa tộc
người H’mong ở Sapa, Lào Cai để phục vụ hoạt động du lịch. ………………. 65
3.1
Định hướng phát triển du lịch ở Sapa đến năm 2020, tầm nhìn2030…….. 65
3.2 Phát triển sản phẩm du lịch của Sapa …………………………………………………. 66
3.1
Giải pháp trực tiếp đén sự phát triển du lịch văn hóa ở Sapa ………………. 66
3.3.1 Phương pháp tuyên truyền
……………………………………………………………… 66
3.3.2 Tập trung đào tạo và đầu tư nguồn nhân lực……………………………………… 68
3.3.3 Cơ chế chính sách phát triển du lịch Sapa ………………………………………… 69
3.2
Một số giải pháp đề xuất khai thác hiệu quả văn hóa tộc người H’mong
phục vụ du lịch …………………………………………………………………………………….. 70
3.4.1 Khôi phục làng nghề truyền thống tộc người h’mong ở sapa
……………….. 70
3.4.3 Đa dạng hóa loại hình du lịch tộc người H’mong ở Sapa ……………………. 73

Du lịch trekking ……………………………………………………………………………… 73
3.3
Xây dựng một số chương trình du lịch có khai thác văn hóa tộc người
H’mong ở Sapa, Lào Cai ……………………………………………………………………….. 76
Kết luận ………………………………………………………………………………………………. 83
Tài liệu tham khảo
………………………………………………………………………………… 84

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của quý thầy cô khoa văn hóa du lịch, Trường Đại học
Dân Lập hải Phòng, sau gần ba tháng thực tập em đã hoàn thành Khóa luận tốt
nghiệp “Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa phục vụ hoạt động du
lịch”.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân
còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô.
Em chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Thanh Hương,
người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập, để em hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Một lần nữa em chân thành cảm ơn cô và chúc cô dồi dào sức khoẻ.
Xin cảm ơn tất cả các bạn bè, thư viện, doanh nghiệp đã giúp đỡ, dìu dắt
em trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và
bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của báo cáo không
tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý
thầy cô cùng toàn thể các bạn.

Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành Du lịch là một ngành Kinh tế ra đời khá sớm tuy nhiên du lịch cũng là
một ngành kinh tế khá non trẻ trong nền kinh tế nước ta đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Trên thực tế nhà nước ta đã và đang phấn đấu đưa du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đưa đất nước mình ra khái danh sách những nước nghèo nàn lạc
hậu, tạo dựng nền tảng vững chắc cho đất nước với một nền công nghiệp hiện đại
thì du lịch cũng đóng mét vai trò hết sức quan trọng.
Du lịch là một ngành xuất khẩu tại chỗ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhắc đến
du lịch, chúng ta không thể quên Thomas Cook – ông tổ của ngành Du lịch đã đặt
nền móng cho sự phát triển các hãng du lịch hiện đại.Du lịch hiện đại phát triển
nhanh chóng trên toàn thế giới sau chiến tranh thế giới II mà đặc biệt là đầu những
năm 60 của thế kỷ 20, ở nhiều quốc gia hàng ngàn công ty lữ hành và đại lý du lịch
đã hình thành và phát triển. Chẳng hạn, ở Anh có trên 4000 công ty và đại lý du
lịch, ở Mỹ có hơn 6000, ở Pháp có khoảng 1000…các công ty này có phạm vi và
quy mô hoạt động rất rộng. Tính chất quốc tế của du lịch cũng đòi hỏi sù phối hợp
trên quy mô lớn trong việc tổ chức, phục vụ, giải quyết tình huống. Do vậy, không
chỉ có công ty lữ hành quốc gia mà cả những công ty lữ hành mang tầm cỡ quốc tế
ra đời và phát triển.
Rất nhanh chóng ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ từ Châu Âu đến các châu
lục khác. Hiện nay, ngành Du lịch cũng phát triển rất mạnh mẽ ở Đông Nam á:
Thái Lan, Malaysia, Philipin,… và Việt Nam còn là một quốc gia hứa hẹn nhiều
tiềm năng du lịch. Những năm gần đây do điều kiện kinh tế phát triển chất lượng
đời sống nhân dân được nâng cao về mọi mặt và xuất hiện nhiều nhu cầu mới: học
tập, tiếp cận tri thức mới, vui chơi, giải trí, …những điều này đã góp phần tạo cho
ngành Du lịch những lợi thế để phát triển.
Trong những năm qua nhờ chính sách mở cửa tạo cho Du lịch Việt Nam mét
diện mạo mới, lượng khách du lịch quốc tế và nội địa tăng lên đáng kể : Theo số
liệu thống kê của Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), trong 9
tháng đầu năm nay, tổng số khách du lịch đến Việt Nam đạt xấp xỉ 11,7 triệu lượt,
tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2017. Khách du lịch nội địa đạt 62,1 triệu lượt.
Tổng thu từ khách du lịch đạt 451,2 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2017.
Cũng theo số liệu khảo sát, lượng khách quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng
không đạt 84%, số liệu thống kê năm 2017. Trong khi đó, đường bộ và đường thủy
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
2
hiện vẫn được các du khách Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản ưa chuộng. Đại
diện Tổng cục Du lịch cho biết ngành Du lịch tiếp tục phấn đấu duy trì tốc độ tăng
trưởng khách du lịch quốc tế và nội địa, hoàn thành mục tiêu được giao trong năm
2018: Đón, phục vụ khoảng 15,7 triệu lượt khách quốc tế, 80-82 triệu lượt khách
nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 620.000 tỷ đồng.
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam. Bắt nhịp cùng sự đổi mới đất nước hơn 20 năm qua ngành du lịch đã có
nhiều tiến bộ và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Những chỉ tiêu về lượng
khách, thu nhập, tỷ trọng GDP và việc làm đã khẳng định vai trò của ngành Du lịch
trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam là một nước nông nghiệp, diện tích đất đai,
sông ngòi lớn nên loại hình du lịch sinh thái đang được chú trọng phát triển với
nhiều loại sản phẩm khác nhau để tạo nên một sức hút mới cho ngành du lịch.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách
quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày
càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình
chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Du lịch đang ngày càng nhận được
sự quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch là những
vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và thảo luận rộng rãi. Một cách tiếp cận đa chiều
về đánh giá chất lượng du lịch sẽ góp phần hình thành các giải pháp đúng đắn nâng
cao chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam
Sapa là thị trấn thuộc tỉnh Lào Cai, Việt Nam, đây là một điểm du lịch nổi
tiếng từ đầu thế kỉ 20 đến nay. Tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng Sapa một bức
tranh phong cảnh vừa lãng mạn vừa hũng vĩ, bao la với những rặng núi trùng điệp
vờn mây đón gió, những thửa ruộng bậc thang ngút tầm mắt, những hàng thông
đứng trầm lặng chứng kiến bao câu chuyện từ thuở Đông Dương trong lòng thị
trấn,… Khí hậu Sapa quanh năm mát mẻ cùng những dấu ấn bản địa độc đáo –
trong đó phải kể đến nhất là văn hóa của hai dân tộc thiếu số lớn tại Sa Pa là người
H’mông và người Dao – kết hợp với không gian kiến trúc châu Âu cổ điển. Tất cả
các yếu tố trên đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho các du khách muốn khám phá
vùng đất này.
Sapa là một tỉnh miền núi phía bắc có nhiều sinh sống ở đây, mỗi dân tộc lại
có một nét văn hóa riêng, một vẻ đẹp riêng. Người H’mông là dân tộc sinh sống
đông nhất ở Sa Pa, bản làng người H’mông sinh sống đông nhất là Cát Cát – San
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
3
Sả Hồ cách thị trấn Sa Pa 2 Km. Người H’mông ở Sapa có nền văn hóa và nhiều
đặc điểm rất đặc biệt. Người H’mông có rất nhiều phong tục và nét đặc biệt trong
phong tục và đời sống hàng ngày.
Là người học ngành văn hóa du lịch, lên em muốn tìm hiểu sâu hơn về văn
hóa tộc người H’mong nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung. Nhận thức được
tầm quan trọng của nền văn hóa dân tộc đối với du lịch. Từ nét văn hóa của người
H’mong ở Sapa Lào cai cùng với Giảng viên hướng dẫn Cô: Vũ Thanh Hương em
đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình là : “Khai thác văn hóa tộc người
H’mong ở Sapa Lào Cai để phục vụ hoạt động du lịch.’’
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đềtài
– Mụctiêu:
+ Tìm hiểu , khai thác văn hóa tộc người H’mong qua đó giữ gìn và phát triển văn
hóa đó để phục vụ hoạt động du lịch.
– Nhiệmvụ:
+ Nghiên cứu tổng quan về du lịch và văn hóa người H’mong (vị trí địa lí, văn
hóa, dân cư …vv…)
+ Nghiên cứu thực trạng khai thác văn hóa tộc người H’mong phục vụ hoạt động
du lịch.
+ Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm khai thác tốt hơn văn hóa tộc người
H’mong phục vụ hoạt động du lịch.
3. Phương pháp nghiên cứu
– Phướng pháp nghiên cứu thực địa
– Phương pháp thu thập thông tin
– Điều tra xã hội học
4. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài khóa luận có những đóng góp chủ yếu sau đây:
– Góp phần khai thác các yếu tố văn hóa đã và đang có, giữ gìn và phát triển
các nét văn hóa theo hướng đề tài khai thác văn hóa tộc người H’mong để phục vụ
hoạt động du lịch.
– Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển văn
hóa dân tộc H’mong, phát hiện được những thế mạnh và những hạn chế cần phải
khắcphục.
– Trình bày được thực trạng phát triển văn hóa du lịch ở địa bàn nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
4
– Đề xuất được định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển mạnh
hơn .
5. Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi nghiên cứu của khóa luận được thực hiện tại huyện Sapa, Lào Cai.
Đề tài nghiên cứu khai thác văn hóa tộc người H’mong. Khả năng và điều kiện
phát triển văn hóa du lịch của tộc người H’mong để phục vụ hoạt động du lịch.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận về Văn Hóa, Du lịch.
Chương 2: Khai thác Văn hóa tộc người H’mong ở Lài Cai Sapa.
Chương 3: Một số giải pháp giữ gìn và khai thác nét văn hóa tộc người
H’mong để phục vụ hoạt động du lịch

Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
5
Chương 1
Cơ sở lí luận về Văn Hóa, Du lịch
1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa tộc người
1.1 Khái niệm về văn hóa
– Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện
trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện
trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
– Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai hóa , đời sống tộc
người H’mong
– Đề xuất các phương pháp khai thác, giữ gìn nét văn hóa vốn có của dân tộc
H’mong phục vụ du lịch.
– Loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do
đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
– Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết
tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và
giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con
người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí,
nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối
hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con
người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của
con người và những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.
– Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng
lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có
mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và
sinh hoạt tinh thần của xã hội.
– Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người
nên sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế,
chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
6
ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Do đó, văn hóa trong xã
hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Đây cũng là quy luật của xã hội có
giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh thần, văn hóa không thể không phản
ánh và không bị chi phối bởi phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt
vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là của giai cấp
thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau.
– Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hóa, tính giai cấp
của văn hóa và trên cơ sở đó hiều rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có giai
cấp. Với cách tiếp cận như vậy, có thể quan niệm: nền văn hóa là biểu hiện cho
toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở
kinh tế – chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị
chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật
quản lý các hoạt động văn hóa.
– Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và
gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự kế thừa
trong văn hóa luôn mang tính giai cấp và được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi
thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó.
– Một nền kinh tế lành mạnh được xây dựng trên những nguyên tắc công
bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một nền
văn hóa tinh thần lành mạnh, và nguợc lại, một nền kinh lế được xây dựng trên cơ
sở bất bình đẳng của chế độ tư hữu với sự phân hóa sâu sắc thì sẽ không có được
nền văn hóa lành mạnh.
– Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa, thì chính trị là yếu tố quy định
khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn
hóa.
– Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in
dấu ấn của nó trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã hội
đó.
1.1.2. Định nghĩa văn hóa
– Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho
rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
7
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách
hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát
minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí
Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con
người. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người
làm nên lịch sử… “văn hóa” bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo
đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên
ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và
sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì
văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư
tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là góc độ
hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này, văn hóa sẽ là kiến thức
của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn mà với cách hiểu này vì hiểu như
thế thì người nông dân cày ruộng giỏi nhưng không biết chữ vẫn bị xem là “không
có văn hóa” do tiêu chuẩn văn hóa ở đây là tiêu chuẩn kiến thức sách vở. Còn góc
nhìn thứ hai là “góc nhìn dân tộc học”. Với góc nhìn này, văn hóa được xem là
toàn bộ cuộc sống -cả vật chất, xã hội, tinh thần- của từng cộng đồng; và văn hóa
của từng cộng đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó được hình thành ở những tộc
người khác nhau trong những môi trường sống khác nhau. Văn hóa sẽ bị chi phối
mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của xã hội thông qua gia đình và các tổ chức xã hội,
trong đó có tôn giáo.
– Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ-
tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc
họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã
hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín
ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu
trưng chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có
đặc thù riêng”…
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
8
– Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như
định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành
tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn
giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F.
Boas, Nguyễn Đức Từ Chi, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt
được của con người trong cuộc sống là văn hóa. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa
đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho
việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là
sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc
đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội)
xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên
khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung
quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng
riêng.
1.1.3. Đặc trưng và chức năng của văn hóa

Văn hóa phải có tính hệ thống:
– Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện
những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa;
phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.
– Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi
hoạt động của văn hóa xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn
hóa thường xuyên làm tăng tính ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi
phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó
là nền tảng của xã hội – có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại
“nền” để xác định khái niệm văn hóa (nền văn hóa).


Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là văn hóa có tính giá trị:
– Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Tính giá
trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mọi mức độ nhân bản của
xã hội và con người.
– Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ
cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý
nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời
gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
9
trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong
việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực
đoan- phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
– Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng
quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được
trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến
đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát
triển của xã hội.

Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh:
– Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội do
con người sáng tạo với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi
bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất
hoặc tinh thần.
– Do mang tính chất nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người
với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với
nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.

Văn hóa còn có tính lịch sử:
– Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được
tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ
phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo nên văn hóa một bề dày, một chiều
sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố
lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống
vănhóa là những giá trị tương đối ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng
con người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã
hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư
luận…
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị . Mà văn hóa thực hiện được chức năng
quan trọng là chức năng điều chỉnh xã hội. Giúp cho xã hội duy trì được trạng thái
cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của
môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã
hội.
1.1.4. Khái niệm về tộc người và văn hóa tộc người
1.1.4.1. Khái niệm
 Khái niệm về tộc người:
– Tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
10
lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc
điểm sinh hoạt văn hoá văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự
giác tộc người và tên tự gọi.
– Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có chung
tiếng mẹ đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm
dân tộc – ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo
nghĩa này, tộc người là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh
nhau và có chung các đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là
việc sử dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây
đó trên thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều mặt,
như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác
nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)… thì liệu họ có cùng
một tộc người kg, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngôn ngữ, hay
họ là một tộc người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ?…
– Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết với
nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngôn ngữ,
chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc
mang tính văn hoá chủ yếu – một nền văn hoá riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn,
tộc người là một tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với
nhau bởi một nền văn hoá riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc
người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một
trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc
người của mình.

Văn hóa tộc người:
– Đặc điểm thứ nhất của văn hoá tộc người là tính khép kín, biệt lập. Tính
khép kín là đặc tính chung của các làng tiểu nông. Trước hết về mặt địa lý, các tộc
người cư trú rải rác trên sườn núi, giao thông đi lại rất khó khăn nên càng tăng
thêm tính biệt lập của tộc người. Tộc người chỉ bao gồm từ một đến vài ba dòng
họ, các dòng họ này cư trú thành chòm xóm nên tạo ra sự xé lẻ của tộc đặc biệt, về
thành phần tộc người. Tính khép kín của tộc người được đề cao. Kinh tế tộc người
là kinh tế tự cung tự cấp. Một tộc nười cổ truyền có thể sản xuất ra tất cả các nhu
yếu phẩm chỉ trừ muối và sắt. Kinh tế tộc người ít có sự trao đổi, mà lại khép kín
trong làng nên nhu cầu giao lưu kinh tế ít có điều kiện phát triển. Do đó quá trình
hình thành chợ vùng cao rất khó khăn. Những chợ sầm uất đông, có nhiều sản
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
11
phẩm cũng là những chợ ở vùng biên giới (Phong Thổ – Lai Châu và Pha Long –
Bắc Hà – Lào Cai). Còn các vùng Tây Bắc chỉ mới thành lập được vài ba chục năm
nay.
– Đặc điểm thứ hai của văn hoá tộc người là quản lý làng bằng cơ chế kết hợp
giữa mệnh lệnh hành chính của chính quyền với tập quán pháp và hương ước của
tộc. Trưởng tộc do dân bầu nhưng phải được thống lý chứng nhận. Trưởng tộc
muốn quyết định những điều hệ trọng của làng phải tham khảo ý kiến của các già
làng. Như vậy, cơ chế vận hành của làng, quyền lực của chính quyền và tính tự trị
của làng. Sự ràng buộc người dân trong làng đều thông qua “luật” và “lệ”. Tuỳ theo
từng lĩnh vực, người dân phải thiên về “luật” hoặc “lệ” nhiều hơn. Khi thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế, đi lao dịch kiện cáo… thì người dân phải dựa và “luật”. Nhưng
khi lao động công ích, ứng xử giao tiếp hàng ngày, người dân đều dựa vào các
chuẩn mực của tập quán pháp và hương ước. Tuy nhiên các làng Hmông thường xa
các trung tâm hành chính nên tính tự trị của làng cao. Và nhiều khi “phép vua thua
lệ làng”.
– Đặc điểm thứ ba của văn hoá tộc người là quan hệ dòng họ, quan hệ huyết
thống nổi trội và nhiều khi chi phối quan hệ láng giềng. Sự phân bố các khu xóm,
ngõ trong tộc người đều dựa theo nguyên tắc cùng dòng họ, cùng huyết thống. Mỗi
dòng họ cư trú một chòm xóm riêng. Hệ thống tín ngưỡng, qui ước của dòng họ
khá phong phú. Trong các lễ thức diễn ra ở tộc người, lễ thức cộng đồng dòng họ,
gia đình phát triển hơn lễ thức của cộng đồng làng. Mọi ứng xử trong làng bên
cạnh vấn đề dựa theo chuẩn mực của cộng đồng làng còn phải dựa theo chuẩn mực
của dòng họ. Dư luận của làng nhiều khi không thống nhất mà còn có nhiều luồng
đại diện cho các dòng họ khác nhau. Và quan hệ dòng họ còn vượt lên trên phạm vi
cộng đồng làng, tạo thành sợi dây vô hình cố kết tộc người. Tuy nhiên, về các qui
ước chung của làng xã, mọi thành viên thuộc dòng họ khác nhau trong làng của
phải tôn trọng. Có như vậy quan hệ làng mới tồn tại không bị phá vỡ.
– Đặc điểm thứ tư của văn hoá của một tộc người là thiếu tính ổn định. Nếu
như các làng cư dân ruộng nước Tày, Thái, Giáy rất ổn định thì trái lại, làng của
người Hmông cổ truyền luôn gắn liền với vấn đề du canh du cư. Bình quân một
làng Hmông chỉ tồn tại từ 25 đến 30 năm là xảy ra sự chuyển cư một bộ phận dân
làng hoặc cả làng. Nguyên nhân chính là do đất canh tác gần làng cạn kiệt, nương
rẫy lại rất chật hẹp không đủ nuôi sống điểm dân cư đông đúc. Do đó qui mô của
làng chỉ nhỏ, sức ép dân số tăng, tất yếu sẽ dẫn đến du canh. Người H’mông phải
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
12
du canh dẫn đến du cư. Tính chất du cư thể hiện đậm nét ở làng Hmông. Đó là hệ
thống nhà cửa không kiên cố. Nơi ở mật tập, ít chú ý đến các công trình chung.
Hầu hết các gia đình H’mông không có vườn. Kinh tế vườn không phải là ngành
kinh tế truyền thống của người H’mông. Do đó địa điểm lập làng chỉ thiên về nơi
có khả năng canh tác truyền thống (phát rừng làm nương rẫy), gần nơi canh tác chứ
ít chú ý đến vấn đề giao thông. Làng thiếu ổn định nên tạo ra nếp sống giản đơn,
tạm bợ đối với người H’mông. Kiến trúc ngôi nhà hầu hết là làm kiểu nhà ngoãm.
Chuồng gia súc, gia cầm ở ngày sát nơi ở của người H’mông. Ngay đến nới sinh
hoạt tôn giáo, nơi thờ thần bản mệnh của người Tày, Việt là ngôi Đình. Còn nơi
thờ thần “thổ địa” của người H’mông chỉ là tảng đảng đá to, hốc cây trong khu
rừng cấm. Ngày lễ “nào xồng” của làng được diễn ra trên bãi cỏ trong rừng. Còn
ngày hội “Gầu tào” của làng được tổ chức ngay sườn đồi, một khu đất tương đối
bằng phẳng. Nhìn chung làng chưa có những kiến trúc công cộng đẹp, có qui mô.
1.1.4.2. Đặc trưng cơ bản của tộc người:
– Để nhận thức chính xác và sâu sắc hơn về tộc người hay nhóm tộc người
(group ethnique), điều quan trọng là phải hiểu được những đặc điểm của các yếu tố
cấu thành của nó. Về vấn đề này, chúng ta có thể tiếp cận các yếu tố đặc trưng sau:
– Trước hết là yếu tố nhân chủng. Đây là yếu tố nền tảng của việc xác định
nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này chúng ta có thể xác định được các tộc
người được sinh ra từ những bộ phận nào của nhân loại; chúng xuất hiện khi nào
và hoà nhập vào nhau ra sao… Khi căn cứ vào yếu tố đặc trưng này, điều quan
trọng là phải nc các thành phần lịch sử khác nhau của cư dân trong tộc người, chứ
không phải chỉ là thu thập và phân tích các dữ liệu nhân chủng trực quan. Những
thành phần cư dân ít nhiều có tính nguyên gốc, cùng với những thành phần cư
dânđóng góp về sau làm thành cơ sở cho qt phát triển tộc người. Các phương
hướng pha tạp, kết hợp kế cận hay chồng chéo của các thành phần cư dân sẽ soi
sáng cho tình trạng hiện tại của tộc người.
– Yếu tố dân số. Bất cứ tộc người nào cũng đều được xác định bằng số lượng
người mà nó tập hợp. Chính vì vậy, những số liệu thống kê về dân số là đặc biệt
quý giá để đo lường cả về mức độ tiến hoá của tộc người. Mặt hhác, chúng còn soi
sáng cả về quá trình phát sinh, phát triển hay triển vọng của tộc người.
– Yếu tố ngôn ngữ. Ngôn ngữ là tiêu chí cơ bản để phân biệt tộc người này
với tộc người khác. Nó là sợi dây liên hệ đặc biệt giữa các thành viên của tộc
người. Ngôn ngữ vừa là dấu hiệu bên ngoài, vừa là một yếu tố cấu kết bên trong
của cộng đồng tộc người. Nó là sở hữu chung, tài sản chung của tộc người, là
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
13
phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.
– Yếu tố lãnh thổ. Với tư cách là một xã hội toàn vẹn và tự lập, mỗi tộc người
đều chiếm một phần lãnh thổ riêng trên bề mặt trái đất. Lãnh thổ là cái khung vật
chất mà trong đó tộc người được cố định, thích nghi và cải biến môi trường tự
nhiên. Lãnh thổ của các tộc người có sự khác nhau về hình thức và tuỳ thuộc vào
khả năng và cung cách sinh sống của họ.
– Yếu tố phương thức sản xuất. Mỗi tộc người đều hình thành trong nó một lối
sống nhất định. Lối sống đó phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, phương thức
sản xuất của riêng nó. Đó là công nghệ, tri thức, tín ngưỡng,…Phương thức sản
xuất có khả năng chấn chỉnh lại lối sống tổng thể. Phương thức sản xuất là cái dễ
biến đổi, nhưng là cái làm cho mỗi tộc người mang đặc trưng riêng, làm cho nó trở
thành thuần nhất có cấu trúc riêng và phân biệt nó với các tộc người khác.
– Yếu tố văn hoá và ý thức tộc người. Tộc người, với tư cách là công động
người, tồn tại trên lãnh thổ của mình, có những nét độc đáo về văn hoá. Theo nghĩa
rộng, văn hoá của tộc người là những cái “phi vật chất” bao gồm những di sản tinh
thần của cộng đồng tộc người dưới tất cả các hình thức của nó. Nó dựa trên cái giá
đỡ đặc biệt là ngôn ngữ. Bất cứ một thành viên nào của tộc người mà về mặt tinh
thần được hình thành trước hết bởi ngôn ngữ thì đều có thể hoàn thiện thế giới
quan của mình thông qua sự thanh lọc của văn hoá tộc người. Điều này tạo cho
thành viên đó một nhân cách cơ sở mà trong nhiều trường hợp, anh ta không ý thức
được. Nó tạo cho anh ta một tập hợp những tri giác, tình cảm và sự nhận biết về giá
trị chung của cộng đồng tộc người. Đó chính là ý thức tộc người.
– Yếu tố cơ sở kinh kế tộc người. Do cùng sinh sống trên một khu vực lãnh thổ
đã hình thành nên cách ứng xử giống nhau trong sinh hoạt kinh tế, tạo ra một cơ sở
kinh tế chung của tộc người. Từ đó, hình thành và phát triển các mối liên hệ, quan
hệ kinh tế nội bộ tộc người. Mối liên hệ kinh tế là một trong những điều kiện để
xuất hiện tộc người (cùng với lãnh thổ), là chất keo cố kết tộc người. Cơ sở kinh tế
là đặc trưng, là nguyên nhân, điều kiện cho phát sinh, tồn tại của các loại hình thị
tộc – bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự thay đổi các mối quan hệ và liên hệ kinh tế tộc
người làm thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội và ra đời các loại hình cộng đồng
tộc người khác nhau.
– Có các đặc trưng văn hóa tộc người. Quá trình sinh tồn, ứng xử của con
người với tự nhiên và xã hội đã tạo ra các đặc trưng văn hóa riêng của từng tộc
người và trở thành bản sắc tộc người. Văn hóa tộc người thể hiện trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, bao giờ cũng mang cốt cách, bản sắc riêng, phân biệt với văn
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
14
hóa các tộc người khác. Đặc trưng văn hóa truyền từ đời này sang đời khác tạo sự
cố kết tộc người, là yếu tố phân biệt tộc người sâu sắc nhất nên văn hóa là tiêu chí
quan trọng nhất để xác định tộc người.
1.1.4.3. Ngôn ngữ tộc người:
– Có thể ví Việt Nam như hình ảnh thu nhỏ của bức tranh ngôn ngữ ở Ðông
Nam á. Bởi lẽ, 54 dân tộc ở Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ của 5 ngữ hệ khác
nhau ở khu vực Ðông Nam Á:
 Ngữ hệ Nam Á, với 2 nhóm:
– Nhóm ngôn ngữ Việt – Mường có 4 dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
– Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ-me có 21 dân tộc: Khơ-me, Ba-na, Cơ-ho, Xơ-đăng,
Hrê, Mnông, Xtiêng, Khơ-mú, Bru-Vân Kiều, Cơ-tu, Ta-ôi, Mạ, Gié-Triêng, Co,
Chơ-ro, Xinh-mun, Kháng, Mảng, Rơ-măm, Brâu, Ơ-đu.

Ngữ hệ Nam đảo có 5 dân tộc: Gia-rai, Ê-đê, Chăm, Ra-glai, Chu-ru.

Ngữ hệ Thái – Ka-đai, với 2 nhóm:
– Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (nhóm Cao
Lan), Giáy, Lào, Lự, Bố Y.
– Nhóm ngôn ngữ Ka-đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.

Ngữ hệ Hmông – Dao có 3 dân tộc: Hmông, Dao, Pà Thẻn.

Ngữ hệ Hán – Tạng, với 2 nhóm:
– Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Sán Dìu, Ngái, và nhóm Sán Chỉ (thuộc
dân tộc Sán Chay).
– Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến có 6 dân tộc: Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống,
Si La.
– Ðương nhiên, mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ của mình. Tiếng Việt, chữ Việt
được sử dụng phổ thông và là ngôn ngữ chính thức trong lĩnh vực hành chính của
quốc gia. Chữ Việt hiện dùng được sáng tạo từ thế kỷ 17, trên cơ sở dùng mẫu tự
La-tinh. Bên cạnh đó, gần ba chục dân tộc thiểu số có chữ viết, nhưng khác nhau
về nguồn gốc, cơ sở tự dạng, thời gian xuất hiện, tính hoàn thiện và mức độ phổ
biến. Nhiều dân tộc mới có chữ viết sớm muộn khác nhau trong thế kỷ 20, cũng
dùng hệ thống tự dạng La-tinh, như chữ của các dân tộc Ê-đê, Gia-rai, Hmông, Cơ-
tu v.v.. Một số dân tộc đã sử dụng chữ viết từ lâu đời, theo 2 hệ thống văn tự hoàn
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
15
toàn khác nhau: Thuộc hệ thống chữ Sanskrit/Pali là chữ Chăm cổ, chữ Thái cổ,
chữ Khơ-me, chữ Lào, chữ Lự. Thuộc hệ thống chữ tượng hình là chữ Hán của
người Hoa và trong quá khứ người Việt cũng sử dụng qua nhiều triều đại; đồng
thời trên cơ sở chữ Hán một số dân tộc đã tạo ra chữ “nôm” cho mình, như: chữ
Nôm của người Việt thời xưa, chữ Nôm của các dân tộc Dao, Giáy, Tày, Nùng,
Sán Dìu v.v.. Chữ Nôm xưa kia từng được người Việt dùng trong giáo dục, văn
học v.v.. Những dân tộc thiểu số có chữ “nôm” thường dùng loại chữ đó để chủ
yếu ghi chép các bài lời cúng và viết trên các tranh thờ cúng. Nay vẫn còn nhiều
sách cổ viết trên giấy bản hay giấy dó được lưu giữ trong các làng người Dao,
Giáy, Tày, Nùng v.v., nhiều sách cổ viết trên lá buông tồn tại ở người Thái, Chăm,
Khơ-me. ở Việt Nam còn thấy cả di tích loại chữ sơ khai gồm hàng loạt ký hiệu
như kiểu hình vẽ ghi ý của người Pà Thẻn.
1.1.4.4. Các đặc trưng sinh hoạt văn hóa tộc người:
– Văn hóa truyền thống các tộc người là một kho tàng các giá trị làm nên sự đa
dạng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Với những phong tục tập quán, lễ hội, tín
ngưỡng và những làn điệu dân ca, những truyện cổ dân gian, nhạc cụ truyền thống
hay các trò chơi độc đáo. Nếp sinh hoạt hàng ngày của tộc người cũng chứa đựng
nhiều điều thú vị, phản ánh đời sống của con người vùng cao.
– Đồng thời cũng chứa đựng nét văn hóa từ xa xưa truyền lại. phản ánh những
nét sinh hoạt của dân tộc độc đáo. Môi trường sống ở các triền núi cao, khí hậu
lạnh khắc nghiệt đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc nhà ở của các tộc người. Từ
quan niệm sống, môi trường đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc.
Như đối với tộc người H’mông ở Sapa Lào Cai có hai loại nhà là nhà trình tường
lợp ngói và nhà gỗ lợp lá, tranh, vách..
1.1.4.5 Điều kiện tự nhiên của Sapa
 Nguồn gốc tên gọi:
– Tên Sa Pa có gốc từ tiếng H’Mông “Sa Pả” nghĩa chữ là Bãi Cát, là tên của
vùng đất này, và nay còn lại một phần nằm ngoài thị trấn Sa Pa là xã Sa
Pả của huyện Sa Pa. Cùng với các tên đó là loạt tên xã theo tiếng H’Mông như Lao
Chải, San Sả Hồ, Sử Pán, Suối Thầu, Tả Giàng Phình,…
– Từ hai chữ “Sa Pả”, người phương Tây phát âm không dấu, thành Sa Pa và
họ đã viết bằng chữ Pháp hai chữ đó thành “Cha Pa” và một thời gian rất dài sau đó
Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng
Sinh viên: Lê Thị Lan – Lớp VH1802
16
người ta dùng “Cha Pa” như một từ tiếng Việt. Về sau, từ này viết được thống nhất
là Sa Pa.
– Thị trấn Sa Pa trước đây có một mạch nước đùn lên màu đỏ đục, nên dân địa
phương gọi là “hùng hồ”, tức “suối đỏ”.
 Lịch sử:
– Năm 1897, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định mở một cuộc điều tra về
người dân tộc thiểu số miền núi vùng cao. Những đoàn điều tra đầu tiên đến Lào
Cai vào năm 1898.
– Mùa đông năm 1903, trong khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ, đoàn
thám hiểm của Sở địa lý Đông Dương đã khám phá ra cảnh quan mặt bằng Lồ Suối
Tủng và làng Sa Pả. Sự kiện này đánh dấu việc ra đời của thị trấn Sa Pa.
– Năm 1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý,
khí hậu, thảm thực vật… Sa Pa bắt đầu được biết tới với không khí mát mẻ, trong
lành và cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng. Năm 1917,
một văn phòng du lịch được thành lập ở Sa Pa và một năm sau, người Pháp bắt đầu
xây dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai
hoàn thành, Sa Pa được xem như thủ đô mùa hè của Bắc Kỳ. Tổng cộng, người
Pháp đã xây dựng ở Sa Pa gần 300 biệt thự.
– Sa Pa bị tàn phá nhiều theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến năm 1947 và
trong chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979.[6] Hàng ngàn ha rừng thông bao phủ
thị trấn bị đốt sạch, nhiều toà biệt thự cổ do Pháp xây cũng bị phá huỷ. Vào thập
niên 1990, Sa Pa được xây dựng, tái thiết trở lại. Nhiều khách sạn, biệt thự mới
được xây dựng. Từ 40 phòng nghỉ vào năm 1990, lên tới 300 vào năm 1995.
Năm 2003, Sa Pa có khoảng 60 khách sạn lớn nhỏ với 1.500 phòng. Lượng khách
du lịch tới Sa Pa tăng lên từ 2.000 khách vào năm 1991 đến 60.000 khách vào
2002.

 Vị trí địa lý:
– Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai có diện tích tự nhiên 68.329 ha,
chiếm 8,24 % diện tích tự nhiên của tỉnh, nằm trong toạ độ địa lý từ 220 07’04’’
đến 220 28’46’’ vĩ độ bắc và 1030 43’28’’ đến 104004’15’’ kinh độ đông. Phía
bắc giáp huyện Bát xát, phía nam giáp huyện Văn Bàn, phía đông giáp huyện Bảo

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *