10184_KLTNĐH – Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa

luận văn tốt nghiệp

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ĐỀ ÁN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY
MẠNH CỔ PHẦN HÓA TRONG MỘT BỘ
PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC
TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI MỞ ĐẦU

Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là
một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn
hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy
mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của
chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ
yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập
trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước
chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu
chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng…
Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực
sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước
thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây
thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển
hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì
vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình
doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng
và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên
cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những
giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại
nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà
nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với
những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy
nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả
mong muốn.
Mặc dù hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã chứng
tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, để đưa ra các giải pháp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần
thiết. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm tiếp tục
đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị
với mong muốn sẽ hiểu hơn về tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta. Từ đó thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân cần phải làm gì để
góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến thức còn hạn chế,
chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Vì thế em rất mong được sự chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn An Ninh để đề án của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy.

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CỔ PHÂN HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC Ở NƯỚC TA.
1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước
ta.
1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh nghiệp nhà nước
khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu
Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột,
về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân.
Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có
kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối.
Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt
như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là các
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà
nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong
điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động
của các Doanh nghiệp nhà nước có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh
đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các
Doanh nghiệp nhà nước phải có những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng
sẽ thất bại trong cạnh tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay.
1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.

Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh
nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài
nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử
dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước
tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt
đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao
của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.

Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn
không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của
mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng
giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả,
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như :
xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối
cùng, không ai biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh
nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là phương tiện chứ
không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân chúng để nuôi một vài doanh
nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết
đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng
tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong đó có
không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải là của toàn dân chứ
không phải của riêng các Doanh nghiệp nhà nước, và Nhà nước cần hành động vì
lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người trong Doanh
nghiệp nhà nước.

Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc
cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá
trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước không phải chỉ cạnh tranh với các doanh
nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước
ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc
quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá
bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với các
tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới.
1.3.
Cổ phần hoá – giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu
1.3.1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì?
1.3.1.1.
Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ
“cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân
dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty
hợp danh.
Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh nghiệp
nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành lập doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu”.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội
đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình.
1.3.1.2.
Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta.
Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người
khác. Những người này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở
hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới
sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ
phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã nêu ở trên không phải cũng được hiểu
đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm
đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ phần hoá chỉ
liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước.
Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng
kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của
doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi
phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể
những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh nghiệp nhà
nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt
động theo Luật của doanh nghiệp.
Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ
phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị
có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Doanh nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp đã
thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết
quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ
thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận
hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi
và chặt chẽ hơn.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính và tổ chức,
dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyền lợi và
trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ phần
hoá theo phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn
tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có Nhà
nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh, cả
quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn, do
đó tạo ra động lực, trách nhiệm và hiệu quả doanh nghiệp.
Trên cơ sở mục đích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nhằm chuyển
doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, cổ phần hoá
ở nước ta bao gồm nhiều hình thức khác nhau:

Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn.

Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông.

Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty.

Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Như vậy, thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở
hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân
cư, các tổ chức kinh tế – xã hội trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh kinh tế
cho doanh nghiệp.
1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước, vấn đề cải cách
Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có
nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là
trước thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều
biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà nước
theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách Doanh
nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu
quả của Doanh nghiệp nhà nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu
quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành bình phong cho
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến
khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận
khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà
nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong Doanh nghiệp nhà
nước ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi
mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp
nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu
trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp
phải.
Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau
như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế
quản lý Doanh nghiệp nhà nước… Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một
trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho
thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát
triển hiện nay.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí
điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là
Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được
thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt
để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ
phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những
yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn
đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm
đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà
nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận
sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể
kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới
ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó.
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể
đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì
100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:

Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc
phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát
sóng, truyền tin…

Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao
gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác
vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt…

Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn
thông, điện, thuỷ nông…

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc
gặp rất nhiều khó khăn.
Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư
nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên
miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho
người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em…
Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức
các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm
việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ.
Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi
đó là bao cấp.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ
nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan.
Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng
giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được
chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:

Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ

Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư
Nhà nước.

Có phương án kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng có thể
thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu
hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống và có số lao động
dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp đồng theo thời vụ. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có
quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và
trong ngành.
3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và vững
chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng
lên chứ không phải tư nhân hoá”
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển
một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:

Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh
nghiệp nhà nước.

Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất
nước.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá
đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để
phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo
động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở
vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều
kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh,
mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là
một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh
nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả
được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp
như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu
giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó
đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao
động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình.
Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó.
Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận
tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh
nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn
nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng
cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy
động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở
hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu
vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn
của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành
công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện
từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà
nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một
tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực
bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài
quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của
Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước.
4.
Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá”
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề
cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà
nước.

Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các
Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành
các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất
trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí
điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết
định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này.
Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở
mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.

Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá
cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế,
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động
đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi
người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hoá.

Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả
ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp
ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá.

Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất
hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao
động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả
của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều
này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện
cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.

Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng
kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được
tiến hành cổ phần hoá.

Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên
thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ
ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện
công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy
mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp phải trong
thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến
như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi
động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó cũng là môi trường để thực hiện
cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc,
công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá
các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài…
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và còn hạn chế
gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế – xã hội, Đảng ta
đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII
tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh
có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần mới, phải
làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi
thích hợp”. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập
được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ
phần Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:
Năm
Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
1990-1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Không
02
01
03
05
07
100
250
212
204
164
532
753
754
Tổng
2987

Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước
thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ
chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến
vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do
đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức
cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp kết
hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%).
Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải
và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành
nông – lâm – ngư ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty
91 chiếm 8,5%.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số
doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp
dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu
khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực
Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I,
Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy
thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng.
Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông
qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu giá
Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh
giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu
hút các nhà đầu tư chiến lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là
các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ
đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được
từ các tổ chức đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã
hoàn toàn chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ
phần đại chúng.
Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các chuyển
biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước trong
một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết ngành, lĩnh
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại
Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố
Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ phần hoá một số bệnh viện
công.
Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước quy
mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp lam ăn
có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi
măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến
hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên
mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ
phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có các Tổng công ty thương mại – Xây dựng,
Điện tử – Tin học, Vinaconex và Bảo Việt.
Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của
những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người nông dân
cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông,
gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công
ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. Ở Tổng công ty mía
đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong mía và cổ đông ngoài doanh
nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người
lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. Ở Tổng công ty mí đường La Ngã
Nhà nước giữ 35%, nông dân tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25%
(trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong
doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005)
nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ
tức là 20%/năm.
Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép kín, nội bộ
sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất thể hiện sự thay
đổi căn bản quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá, góp phần tạo ra sức bật mạnh
mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống Doanh nghiệp nhà nước một
cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt
Nam đã thu hút được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần
80% tổng số cổ phần bán ra.
Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp mang tính đột phá
nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu sang đa sở hữu. Các doanh
nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khi triển khai thực hiện cổ
phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì các doanh nghiệp quân
đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị trường, bản thân người lao động
cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính đến thời điểm này, đã có 16 doanh
nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp
phụ thuộc hoàn thành xong (đạt 56% kế hoạch).
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, cho
đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các doanh
nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên
thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần
hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay.
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu,
lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động, cổ tức. Kết quả của các cuộc điều tra
cho thấy:
Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của
doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%… và cho đến nay có tới
92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình
quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này cho thấy việc
chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt
động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình
quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới
54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như công ty cổ phần đại lý liên
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần, công ty cổ phần Kim
Đan: 11,2 lần…
Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân 63,9%; mức
nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng của lao động tăng
34,5% so với trước khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển
đổi các Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo
thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong các doanh nghiệp
cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình quân của các doanh nghiệp
đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất.
Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể. Vốn
bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ đồng (năm
2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh mang
lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho
người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội hiện nay.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người
lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà
hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã
quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng
định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được
tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ
phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai
thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiện hơn trước.
3.
Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và nguyên
nhân của chúng.
3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế:
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ
phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần
hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến
hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt
80%, số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt
con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban
chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi
sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời
gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn
437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Trong đó chia theo các giai đoạn sau:
STT
Nội dung công việc
Số ngày thực hiện
1
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt
đầu định giá
135 ngày
2
Bắt đầu định giá – quyết định giá trị doanh
nghiệp
135 ngày
3
Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê duyệt
phương án cổ phần hoá
66 ngày
4
Phê duyệt phương án cổ phần hoá – bắt đầu
bán cổ phần
24 ngày
5
Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ
phần
38 ngày
6
Hoàn thành bán cổ phần – đại hội cổ đông
15 ngày
7
Đại hội cổ đông – đăng ký kinh doanh
24 ngày
8
Tổng cộng
437 ngày

Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trương cổ
phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Phát
triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhưng nay mới nhỉ dừng lại ở
mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến đến hết năm 2007
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá Tổng công ty Xuất khẩu xây
dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng tương tự.

Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn.
Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có 30%, Nhà
nước không giữ đồng vốn nào: 29%, Nhà nước giữ cổ phàn chi phối trên 51%.
Cũng trong số gần 3000 doanh nghiệp thì Nhà nước cũng nắm lại 46,5% vốn điều
lệ. Điều này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhưng Nhà nước vẫn là cổ đông lớn
nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành lập theo cách này đang
được Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà
nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ
đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28%,
thì đến thời kỳ 2001-2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%.
Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000
doanh nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có Nhà nước đầu tư nước ngoài.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.

Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang cổ phần hoá, nhưng
nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn Nhà nước quá
nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ
đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn
Nhà nước trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn đến tình trạng về mặt số lượng Doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm tới 53% tổng số Doanh nghiệp nhà nước có
tại thời điểm đầu năm 2001, nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số
vốn chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 tỷ đồng), nhưng đa số không
phát huy được hiệu quả. Số vốn này tập trung chủ yếu tại các công ty 91 (riêng 3
tổng công ty Dỗu khí, Điện lực, Bưu chính Viễn thông nắm giữ 113 ngàn tỷ đồng).

Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty,
phương pháp quản lý, lề lối làm việc tư duy quản lý vẫn còn như Doanh nghiệp nhà
nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của
Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư
cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Việc Nhà
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nước nắm giữ 51% vốn diều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ
quan quản lý Nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ
phần theo luật định mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo
công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định
hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần
hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước.

Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập. Thực
tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao
động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại ở một số đơn vị làm ăn có hiệu
quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người
lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy tỷ lệ người lao động được
giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ
phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần phải giải quyết. Trong một số Doanh
nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có
những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách
mua lại những cổ phiếu mà người lao động trong doanh nghiệp đã được mua với giá
ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong
doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở
hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này
không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân người lao động mà còn ảnh
hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực
quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người
chủ.
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu,
việc cổ phần hoá còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại
Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vậy đâu là nguyên nhân của những hạn chế này?
3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ phần
hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Những nguyên nhân chủ yếu của quá trình thực hiện cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước có thể được giải thích bởi những nguyên nhân chính sau đây:
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
3.2.1. Hạn chế về nhận thức

Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các Doanh nghiệp
nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước mà
mình đang quản lý. Cản trở này đã bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần
hoá. Có thể nói rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động
chưa thấy rõ được bản chất, vai trò và ưu thế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà
nước đối với ự phát triển nền kinh tế, đối với cải thiện hoàn cảnh của người lao
động.Việc tuyên truyền về cổ phần hoá chưa đạt tới mức làm cho cán bộ, đảng viên
trong các Doanh nghiệp nhà nước hiểu đúng về cổ phần hoá, về vai trò mới của
người lao động. Vì thế, ở nhiều Doanh nghiệp nhà nước, cán bộ công nhân viên đều
không muốn doanh nghiệp của mình bị cổ phần hoá, bản thân mình chuyển từ chế
độ tuyển dụng sang chế độ hợp đồng.

Cổ phần hoá là giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước nên việc tiến
hành hoạt động này khá nhạy cảm về chính trị. Những giải pháp cải cách này dễ gây
sự phản ứng từ khá nhiều cấn bộ, đảng viên có tư duy trở thành “bất di, bất dịch” là
chỉ có Doanh nghiệp nhà nước, kinh tế Nhà nước mới là nền tảng của Chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy theo họ, cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là làm “giảm sút” về
lượng vai trò của Doanh nghiệp nhà nước.

Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý Doanh nghiệp nhà nước cũng là
một trong những cản trở việc nhận thức đúng về cổ phần hoá. Những người này lo
lắng khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần vị trí quản lý của họ bị thay đổi và
không có gì đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ giữ những cương vị đó trong công ty cổ
phần được hình thành trên nền tảng doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Mối lo
này cũng với những lợi ích khác cản trở những cán bộ quản lý hiểu đúng tầm quan
trọng của giải pháp cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
3.2.2. Hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn diện trong sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước. Do động chạm đến nhiều vấn
đề phức tạp nên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Thực tế cho thấy nơi nào cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm
chỉ đạo thì mọi khó khăn lúng túng đều có thể khắc phục được. Khách sạn Sài Gòn
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký mua cổ phần nhưng sau gần hai năm
kiên trì giải thích, thuyết phục, khi cổ phần hoá đã có 100% người lao động trong
công ty mua cổ phần. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp nên không thể tránh
khỏi những hạn chế, bất cập nhất định. Những hạn chế về chỉ đạo thực hiện biểu
hiện ở một số khía cạnh sau:

Cơ sở pháp lý cho cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước còn chưa vững
chắc. Việc ban hành các Nghị định, các Thông tư điều chỉnh các vấn đề khác nhau
của cổ phần hoá không giải quyết được mâu thuẫn giửa các văn bản luật có liên
quan đến những vấn đề cụ thể của cổ phần hoá. Đã qua 15 năm thực hiện cổ phần
hoá song chúng ta chưa có một văn bản luật có giá trị cao, mang tính hệ thống về cổ
phần hoá. Mặc dù số lượng các văn bản về cổ phần hoá được ban hành nhiều, nhất
là các thông tư về tinh xung quanh các Nghị định, quyết định, song số vấn đề được
giải quyết trong đó không tăng. Hơn nữa, các văn bản pháp luật đã ban hành chưa
xác định đúng loại quan hệ đột phá trong cổ phần hoá nên tính dân chủ của các quy
định là điều dễ nhận thấy trong đó.

Môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được độc lập.
Doanh nghiệp nhà nước vẫn được nhiều ưu đãi hơn và một số cán bộ quản lý ở các
ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ phần hoá là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên
còn phân biệt đối xử. Mặt khác do luật công ty trước đây là luật Doanh nghiệp nhà
nước đều chưa xác định được một cách đầy đủ vai trò quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp đa sở hữu có vốn của Nhà nước gộp trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa nên mỗi nơi vận dụng theo một nhận thức riêng. Các thông
tư hướng dẫn đều có lợi cục bộ cho doanh nghiệp, thậm chí cho một nhóm người
nhất định thì thường được ưu tiên áp dụng hơn so với các quy định pháp luật có
hiệu lựa cao hơn.

Về công tác tổ chức: cổ phần hoá là một chính sách quốc gia của việc đổi
mới, hoàn thiện thành phần kinh tế công. Việc thực hiện cổ phần hoá cần được tổ
chức chặt chẽ. Các vấn đề đã được giải quyết, các phương án được đưa ra phải được
nghiên cứu kỹ lưỡng rút kinh nghiệm và liên tục hoàn thiện biện pháp triển khai. Ở
nước ta hiện nay chưa có được một tổ chức đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ này.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trong giai doạn hiện nay – mục tiêu
và triển vọng.
Những phân tích nêu trên về tác động và thực trạng của cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước cho thấy sự cần thiêt phải tiếp tục tiến hành giải pháp này trong
giai đoạn tới. Nếu đặt giải pháp này trong bối cảnh hiện nay sẽ càng thấy rõ hơn
tính cấp bách của vấn đề. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa chương trình cổ phần
hoá Doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn chủ yếu từ những nguyên nhân sau:

Áp lực cải cách Doanh nghiệp nhà nước để tạo ra sự phát triển ổn định và
bền vững hơn đang trở nên nặng nề hơn do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi
tình trạng kém phát triển.

Việc đất nước ta tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
ký kết và tham gia các hiệp định thương mại đa phương và song phương. Tất cả
những bước tiến sâu vào hội nhập kinh tế để dẫn đến thị trường mở và chế độ tự do
thương mại. Điều này có ý nghia là các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh để
tồn tại. Cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Tính cạnh
tranh thấp là điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước.

Tiến độ cổ phần hoá trong những năm vừa qua tuy có những bước phát
triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng.
Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải
cáh Doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá. Nghị quyết hội nghị TW Đảng
khoá IX đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả
khu vực Doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa…”, “Đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hoá, mở rộng diện các Doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần,
kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện
kim, cơ khí, hoá chất, phần bón, xi mang, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông,
hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm”. Những định hướng cho
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước
trong đó chủ yếu là cổ phần hoá trong giai đoạn trước mắt bao gồm:

Thị trường hoá giá trị tài sản Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần
hoá, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất.
SV: Hoμng ThÞ Trang

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *