10908_Quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam

luận văn tốt nghiệp

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TƯỞNG QUỐC CÔNG

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI HỆ THỐNG
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội – 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TƯỞNG QUỐC CÔNG

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI HỆ THỐNG
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

Ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 8.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI QUANG TUẤN

Hà Nội – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan Luận văn “Quản lý tài sản công tại hệ thống Toà án
nhân dân ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả, với sự hướng
dẫn tận tình của PGS.TS. Bùi Quang Tuấn.
Các tài liệu tham khảo, các số liệu thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu
công trình này được sử dụng đúng quy định, không vi phạm quy chế bảo mật của
Nhà nước.
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

Tưởng Quốc Công

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..
1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
…………………………………………………………
6
1.1. Tài sản nhà nước trong các cơ quan nhà nước
……………………………………………..
6
1.2. Quản lý TSC trong cơ quan Nhà nước
………………………………………………………
13
1.3. Đánh giá kết quả quản lý tài sản công trong các cơ quan nhà nước ………………
24
1.4. Kinh nghiệm quản lý tài sản công ở các quốc gia trên thế giới …………………….
29
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI HỆ THỐNG TOÀ
ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM …………………………………………………………………..
34
2.1. Tổng quan về hệ thống toà án nhân dân
…………………………………………………….
34
2.2. Thực trạng quản lý tài sản nhà nước tại ngành Toà án nhân dân
…………………..
44
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý TSC tại hệ thống TAND
…………………………………
54
Chương 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI SẢN
CÔNG TẠI HỆ THỐNG TAND Ở VIỆT NAM …………………………………………..
60
3.1. Phương hướng tăng cường công tác quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án
nhân dân ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………
60
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý TSC tại hệ thống TAND ở Việt Nam

61
3.3. Kiến nghị ………………………………………………………………………………………………
76
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ
NN Nhà nước
NSNN Ngân sách nhà nước
CQNN Cơ quan nhà nước
CQHCSN Cơ quan hành chính sự nghiệp
TS Tài sản
TSNN
Tài sản nhà nước
TSC Tài sản công
TAND Toà án nhân dân
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
TSCĐ Tài sản cố định
TC Tài chính
PTLV Phương tiện làm việc
PTVT Phương tiện vận tải

1
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản công, một bộ phận quan trọng của tài sản quốc gia, là tài sản thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản
công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh
tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh nghiệp;
tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, dự trữ
ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác. Tài sản công là nguồn lực của
đất nước do Nhà nước làm chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu quản lý, sử dụng nhằm
thực thi có hiệu lực và hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý xã hội. Trước vai trò
quan trọng của công tác quản lý tài sản công và thực tiễn đổi mới nền kinh tế – xã hội,
Quốc hội khoá XIV nước ta đã ban hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số
15/2017/QH14 ngày 21/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Tiếp đó,
Chính phủ ban hành nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Hệ thống
TAND có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản công, tập thể và của công dân.v.v.. thông qua các hoạt động xét xử các
vụ án hình sự, dân sự và các vụ việc khác liên quan đến luật pháp và quyền công dân.
Để thực hiện chức năng của mình, Hệ thống Tòa án nhân dân được giao quản lý, sử
dụng một khối lượng tài sản công rất lớn và gia tăng hàng năm.
Như mọi tài sản công khác, tài sản công tại Hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt
Nam cũng phải được quản lý thống nhất, chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả.
Trong quá trình đổi mới kinh tế – xã hội và cải cách hoạt động tư pháp, công tác
quản lý tài sản công tại Hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam trong những năm
gần đây đã bước đầu đi vào nề nếp, đã chú trọng trang cấp tương đối đầy đủ về số
lượng và chất lượng tài sản. Việc trang cấp về cơ bản bảo đảm đúng đối tượng, đã
mở sổ sách theo dõi, cập nhật quản lý qua đó góp phần quan trọng vào việc thực
hiện chức năng nhiệm vụ của Hệ thống.
Tuy nhiên trong những năm qua, tình hình quản lý, sử dụng tài sản công tại
Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập như:
Áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công chưa đồng bộ,
chưa thống nhất; cơ chế phân cấp quản lý chưa rõ ràng, dẫn đến việc lập hồ sơ tài
sản, quản trị tài sản, kế toán tài sản, báo cáo thống kê tăng giảm tài sản, công tác
bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế tài sản chưa được tiến hành một cách thường xuyên;

2
công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng tài sản công chưa thật sự được coi trọng;
bộ máy quản lý công sản của hệ thống Tòa án nhân dân mới được thành lập và đi
vào hoạt động (2011), công tác chỉ đạo hướng dẫn, cập nhật văn bản quy định mới
chậm so với yêu cầu quản lý theo hệ thống dọc. Những hạn chế, bất cập đó một mặt
làm giảm hiệu quả sử dụng của tài sản công, mặt khác chưa đáp ứng yêu cầu tăng
cường công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại Hệ thống Tòa án nhân dân theo
Hiến pháp sửa đổi (2013). Đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu về
công tác quản lý tài sản nhà nước nhưng do hiện nay đã có nhiều thay đổi trong
quản lý tài sản nhà nước nên các công trình đó còn có nhiều bất cập. Mặt khác cũng
chưa có công trình nào nghiên cứu về quản lý tài sản nhà nước tại Hệ thống Tòa án
nhân dân. Vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa
án nhân dân ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề quản lý TSC là một nội dung lớn đã và đang được đề cập tới trong
một số công trình nghiên cứu gần đây ở trong nước, hiện nay có một số công trình
nghiên cứu, luận án tiến sỹ, luận văn cao học, báo cáo khoa học… đã công bố có
chủ đề liên quan đến đề tài luận văn.
Trước đây Việt Nam phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung
vì vậy vấn đề quản lý TSC gần như không được nghiên cứu. Từ khi đất nước
chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những vấn
đề của kinh tế thị trường mới bắt đầu được nghiên cứu, tuy nhiên vấn đề quản lý
TSC gần như được nghiên cứu sau cùng. Luật quản lý, sử dụng TSC đến 3/6/2008
mới được ban hành lần đầu tiên ở Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu quản lý TSC
trong CQNN từ 2000 mới được các nhà khoa học trong nước nghiên cứu. Từ đó đến
nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về quản lý, sử dụng TSC trong các CQNN ở
Việt Nam dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
– Trong đề tài “ Chiến lược đổi mới cơ chế quản lý tài sản công giai đoạn
2001-2010”, 2000, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, của tác giả PGS.TS Nguyễn
Văn Xa đã tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng tình hình quản lý, sử dụng
toàn bộ tài sản công trong nền kinh tế Việt Nam (trong đó có tài sản công trong khu
vực hành chính sự nghiệp). Trong giai đoạn 1995-2000, từ đó đề xuất giải pháp đổi
mới cơ chế quản lý tài sản công trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp đến năm 2010.
Đây là công trình khoa học đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận, những quan điểm
mới về quản lý, sử dụng tài sản công trong điều kiện vận hành nền kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

3
– Trong đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý TSC tại đơn vị sự nghiệp”, đề tài
nghiên cứu cấp bộ năm 2002 của tác giả Tiến sĩ Phạm Đắc Phong ở Hà Nội đã tập
trung nghiên cứu cơ chế quản lý TSC trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo, khoa học
công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao. Đề tài đã nghiên cứu việc quản lý TSC của các
cơ quan hành chính sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp (chủ yếu là đơn vị sự nghiệp) củ
một số bộ ngành cụ thể. Từ đó đề xuất hướng hoàn thiện cơ chế quản lý TSC tại
đơn vị sự nghiệp của các lĩnh vực trên.
– Trong đề tài “Đổi mới cơ chế quản lý TSC tại đơn vị sự nghiệp công lập” đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2013 của tác giả Phạm Đình Cường ở Hà Nội.
Về lý luận: đề tài đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về cơ chế quản lý
TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Về mặt thực tiễn: Đã phân tích thực trạng cơ chế quản lý TSC tại đơn vị sự
nghiệp công lập trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
chế quản lý TSC trong các đơn vị trong thời gian tới.
– Luận án tiến sỹ kinh tế:
+ Luận án “ Cơ chế quản lý TSC trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt
Nam”, của nghiên cứu sinh Nguyễn Mạnh Hùng- Đại học kinh tế quốc dân năm
2008 về lý luận, luận án đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp công lập về TSC trong khu vực hành chính sự nghiệp. Tác
giả đã đi sâu phân tích cơ chế quản lý tài sản công, hiệu quả và hiệu lực của cơ chế
quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời
cũng khảo cứu kinh nghiệm quản lý TSC ở một số quốc gia trên thế giới.
+ Luận án “Quản lý TSC trong các cơ quan hành chính sự nghiệp ở Việt
Nam” của nghiên cứu sinh Phan Hữu Nghị- Đại học kinh tế quốc dân năm 2009
Về lý luận, luận án đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về quản lý TSC
trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam như: Cơ quan hành chính sự
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, TSC trong các cơ quan hành chính nhà nước,
quản lý TSC trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Về mặt thực tiễn, luận án đi sâu phân tích thực trạng quản lý TSC là trụ sở
làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam. Từ đó rút ra những ưu
điểm, hạn chế và bất cập trong quản lý trụ sở làm việc tại các cơ quan hành chính ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó luận án đã đề xuất được các giải pháp để hoàn thiện quản
lý trụ sở làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam giai đoạn tới.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án nhân
dân ở Việt Nam, theo tìm hiểu của tác giả hầu như chưa có đề tài nghiên cứu nào.
Trong quá trình thực hiện tác giả đã kế thừa, học tập những ưu việt của các công

4
trình nghiên cứu trước đó để hoàn thành luận văn của mình. Luận văn này sẽ tiếp
tục hoàn thiện các khoảng trống cần nghiên cứu về công tác quản lý tài sản công nói
chung và quản lý tài sản công tại hệ thống tòa án nhân dân ở Việt Nam nói riêng để
giải quyết các vấn đề tồn đọng trong các nghiên cứu hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ thực trạng quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án nhân
dân ở Việt Nam giai đoạn 2013-2017, chỉ ra các kết quả, còn hạn chế, phân tích
nguyên nhân, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý tài sản công tại
hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
– Hệ thống hóa lý luận về quản lý tài sản công trong các cơ quan nhà nước ở
Việt Nam.
– Phân tích thực trạng quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án nhân dân ở
Việt Nam giai đoạn 2013-2017; nêu các kết quả đạt được, những hạn chế và bất cập
trong quản lý tài sản công và các nguyên nhân của hạn chế.
– Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản công tại hệ thống
Tòa án nhân dân ở Việt Nam giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý tài sản công, cụ thể là thực
trạng công tác quản lý tài sản công, những điểm tích cực và hạn chế về công tác này
tại hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
– Về nội dung nghiên cứu
+ Tình hình quản lý tài sản công ở hệ thống Tòa án nhân dân trong đó đi sâu
phân tích thực trạng quản lý tài sản nhà nước là trụ sở làm việc, phương tiện vận tải,
tài sản chuyên dùng và tài sản khác. Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý
của cơ quan quản lý công sản thuộc Tòa án nhân dân Tối cao đối với tài sản công
của toàn hệ thống.
– Về thời gian: Giai đoạn 2013-2017.
– Về địa bàn nghiên cứu: Hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, trong quá trình nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

5
– Phương pháp nghiên cứu tổng quan các tài liệu: đây là phương pháp quan
trọng để tìm hiểu những tài liệu lý thuyết về quản lý tài sản công, các công trình
khoa học đã nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích những tài liệu đã có giúp học viên tìm
ra những nội dung và phương pháp mà các nghiên cứu trước đó đã giải quyết, từ đó
tìm ra khoảng trống cho nghiên cứu luận văn của mình.
– Phương pháp thống kê so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp này để
phân tích thực trạng công tác quản lý tài sản công ở hệ thống Tòa án nhân dân,
thông qua các chỉ tiêu số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, chỉ số.v.v… và được
thể hiện qua các bảng phân tích và sơ đồ minh hoạ. Từ đó rút ra nhận xét về ưu
điểm, nhược điểm và nguyên nhân của những nhược điểm trong công tác quản lý tài
sản công tại hệ thống Tòa án nhân dân.
– Về nguồn số liệu: Chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp từ các báo cáo của hệ
thống Tòa án nhân dân và Cục Quản lý công sản – Bộ Tài chính.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
– Hệ thống hóa, hoàn thiện và bổ sung các vấn đề lý luận về quản lý tài sản
công, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý tài sản công trong các
cơ quan nhà nước.
– Khảo sát các bài học kinh nghiệm về quản lý tài sản công ở một số quốc gia
để có thể vận dụng vào quản lý tài sản công ở các cơ quan nhà nước ở Việt Nam.
– Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại hệ
thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam trong giai đoạn 2013-2017.
– Tìm ra hạn chế, bất cập và nguyên nhân tại sao hiệu quả quản lý tài sản
công tại hệ thống Tòa án nhân dân chưa tốt, chưa khai thác hết công năng của tài
sản công trong các cơ quan này.
– Đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản
công tại hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
sẽ có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản lý tài sản công trong các cơ quan
nhà nước;
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài sản công tại hệ thống Tòa án
nhân dân;
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản lý tài sản công tại hệ thống
Tòa án nhân dân ở Việt Nam.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

1.1. Tài sản nhà nước trong các cơ quan nhà nước
1.1.1. Khái niệm về tài sản công
Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017
của Quốc hội định nghĩa: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt
động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài
sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh nghiệp; tiền thuộc
ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối
nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”.
Bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào một
trong các nguồn lực của mình là tài sản quốc gia. Đó là tất cả những tài sản do các
thế hệ thành viên của quốc gia tạo ra hoặc thu nạp được và các tài sản do thiên
nhiên ban tặng cho con người. Trong phạm vi một đất nước, tài sản quốc gia có thể
thuộc sở hữu riêng của từng thành viên hoặc nhóm thành viên hoặc là sở hữu chung
của tất cả thành viên trong cộng đồng quốc gia; đó là tài sản nhà nước; cũng có
quốc gia quan niệm TSC là tài sản thuộc về nhà nước. Tỷ trọng TSC trong tổng số
tài sản quốc gia lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào quan hệ sản xuất đặc trưng của các hình
thái kinh tế – xã hội ở các giai đoạn lịch sử của mỗi nước.
Ở Pháp, “Tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và quyền hạn đối với
động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước” (Điều L.1 Bộ luật Tài sản nhà nước
năm 1998).
Ở Việt Nam, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Điều 197 Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân như sau: “Đất
đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.

7
Tiếp đó, tại các Điều 228, 229, 230, 235, 244 và 622 của Bộ luật Dân sự nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Điều 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Điều 124 Luật Thi hành án
dân sự năm 2014 đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước do pháp
luật quy định bao gồm: Các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, vật chứng
trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ nhà nước; vật bị chôn dấu, chìm đắm được
tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu, vật do người khác
đánh rơi, bỏ quên được xác lập quyền sở hữu của nhà nước theo quy định của pháp
luật, di sản không người thừa kế hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ
chối nhận di sản, tài sản do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước biếu tặng Chính phủ
hoặc tổ chức nhà nước… Theo Giáo trình “Quản lý tài sản công”:
“Tài sản nhà nước là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà
nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
đất đai, rừng tự nhiên, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn
lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời” [18 Tr6].
Khái niệm về TSC trên đây ở các nước cũng như ở nước ta đã phản ánh đầy
đủ các TSC đã được thể chế hoá trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan, đồng thời phản ánh hai mặt cơ bản của TSC.
• Thứ nhất, tuy mức độ có khác nhau, nhưng mọi chế độ xã hội đều tồn tại
TSC là các tài sản thuộc sở hữu của mọi thành viên của quốc gia mà Nhà nước là
người đại diện chủ sở hữu. Nhà nước giao TSC cho các tổ chức, cá nhân trực tiếp
quản lý, sử dụng; do đó, nhà nước phải tổ chức quản lý việc sử dụng tài sản nhà
nước bằng một hệ thống các chính sách, chế độ, công cụ, biện pháp quản lý và có
bộ máy quản lý để đảm bảo việc sử dụng tài sản nhà nước tiết kiệm, có hiệu quả,
đem lại lợi ích cho toàn dân.
• Thứ hai, Khái niệm TSC đã bao hàm đầy đủ các loại tài sản mà ở tất cả các
chế độ khác nhau đều có như tài sản có được từ đầu tư xây dựng, mua sắm bằng quỹ
tiền tệ tập trung của ngân sách nhà nước, các tài sản khác mà Nhà nước thu nạp
được và nguồn tài sản do thiên nhiên ban tặng cho con người.
1.1.2. Đặc điểm tài sản công.
Thứ nhất, TSC phong phú về chủng loại; mỗi loại tài sản có tính năng, công
dụng khác nhau và được sử dụng vào các mục đích khác nhau, được đánh giá hiệu
quả theo những tiêu thức khác nhau; TSC nhiều về số lượng, lớn về giá trị và mỗi

8
loại tài sản lại có giá trị sử dụng khác nhau, thời hạn sử dụng khác nhau…; do đó
việc quản lý đối với mỗi loại tài sản cũng có những đặc điểm khác nhau.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, sử dụng
TSC lại không phải là người có quyền sở hữu tài sản; do đó, nếu không quản lý chặt
chẽ sẽ dẫn đến việc sử dụng tài sản lãng phí, thất thoát tài sản.
Thứ ba, TSC được phân bổ ở khắp mọi miền đất nước, được giao cho các
cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng; có loại tài sản đa số các tổ
chức, cá nhân có yêu cầu sử dụng và được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng
(trụ sở, xe ô tô phục vụ công tác…), có loại tài sản chỉ có một ngành hoặc một số tổ
chức, cá nhân có yêu cầu sử dụng phù hợp tính chất hoạt động đặc thù của tổ chức
và được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng; do đó, phải có cơ chế quản lý và
tổ chức bộ máy quản lý tài sản nhà nước cho phù hợp.
Thứ tư, TSC bao gồm hai loại: tài sản kinh doanh (tài sản nhà nước giao cho
doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức kinh tế khác của Nhà nước), tài sản không
kinh doanh (TSC giao cho cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
(không kinh doanh), đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác); do đó,
cơ chế quản lý và bộ máy tổ chức quản lý nhà nước phải phù hợp với loại tài sản
này, nhưng phải đảm bảo thống nhất trong toàn bộ cơ chế quản lý TSC.
1.1.3. Vai trò của tài sản công trong đời sống kinh tế
Tài sản quốc gia nói chung và TSC nói riêng đều tạo ra cho quốc gia một
tiềm lực phát triển, một cuộc sống vật chất, văn hoá, tinh thần. Bác Hồ đã khẳng
định: “tài sản nhà nước là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế
chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân”. Vai trò
của TSC có thể được xem xét dưới nhiều khía cạnh: kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo
dục, tinh thần được thể hiện trên các mặt cơ bản sau:
1.1.3.1. Tài sản nhà nước là tài sản của một quốc gia
Trước hết nói đến TSC là nói đến sức mạnh vật chất hiện thực về kinh tế,
quốc phòng của mỗi quốc gia, sức mạnh này được khẳng định trên các mặt: chủng
loại, khối lượng, số lượng, giá trị toàn bộ TSC được tích luỹ từ nhiều thế hệ, là sức
mạnh kinh tế, quốc phòng của mỗi quốc gia, có những tài sản là những công trình vĩ
đại, chứa đựng tinh hoa của dân tộc, là biểu tượng, là di sản vô giá, là niềm tự hào
của dân tộc. Ví dụ: Nói đến Kim tự tháp là chúng ta nghĩ đến đất nước Ai Cập; nói
đến đất nước Việt Nam thì có Cố đô Huế .v.v…

9
Thứ hai, TSC là nhân chứng của quá trình phát triển của mỗi quốc gia, thể
hiện trình độ phát triển của mỗi triều đại, qua các giai đoạn của một quốc gia. Do
được tích luỹ từ nhiều thế hệ nên tài sản nhà nước là di sản – tài sản của quốc gia;
nhất là các công trình kiến trúc, hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng được lưu
chuyển từ thế hệ trước cho thế hệ sau, những công trình đó đánh dấu sự phát triển
của mỗi triều đại, là nhân chứng cho thành quả lao động của mỗi dân tộc ở mỗi thời
đại. Trong xã hội đương đại, TSC của mỗi quốc gia phản ảnh trình độ phát triển,
tiềm lực kinh tế của đất nước. Những quốc gia phát triển, có tiềm lực kinh tế mạnh
thì có khối lượng tài sản nhà nước lớn và hiện đại, ngược lại, những quốc gia kinh
tế chậm phát triển và tiềm lực kinh tế kém thì không có đủ nguồn lực tài chính để
đầu tư phát triển tài sản nhà nước bằng các nước giàu.
Thứ ba, loài người đã trải qua các hình thaí kinh tế – xã hội khác nhau. Ở mỗi
quốc gia đều trải qua các triều đại kế tiếp nhau, triều đại sau tiếp thu và thừa kế tài
sản nhà nước của triều đại trước để lại; không một cá nhân, tổ chức nào có quyền
thừa kế TSC. Kế thừa TSC từ triều đại trước để lại thuộc thẩm quyền của nhà nước
kế sau, đó là lẽ đương nhiên của xã hội loài người.
1.1.3.2. Tài sản nhà nước là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất xã hội
Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử, sản xuất ra của cải vật chất
là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội và suy cho cùng thì nó quy định và quyết
định toàn bộ đời sống xã hội. Bất cứ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại
đều là sự tác động của con người vào các yếu tố lực lượng tự nhiên nhằm thoả mãn
những nhu cầu nào đó của con người. Nói một cách khác sản xuất luôn luôn là sự
tác động qua lại của ba yếu tố cơ bản: sức lao động con người, tư liệu lao động và
đối tượng lao động. Đối tượng lao động là các vật thể mà lao động con người tác
động vào để biến thành các sản phẩm mới phục vụ cho con người. Đối tượng lao
động có thể có sẵn trong thiên nhiên, có thể là loại vật thể đã qua chế biến. Nhưng
suy cho cùng cơ sở của mọi đối tượng lao động đều có nguồn khai thác từ đất đai và
tài nguyên thiên nhiên. Tư liệu lao động (trừ đất là một tư liệu đặc biệt) đều là
những tài sản do con người tạo ra để truyền dẫn sự tác động của con người lên đối
tượng lao động thành các sản phẩm mới phục vụ con người. Đối tượng lao động và
tư liệu lao động lại đều là tài sản quốc gia nói chung và tài sản nhà nước nói riêng.
Như vậy, nói tư liệu lao động và đối tượng lao động là hai yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất vật chất cũng có nghĩa là tài sản quốc gia nói chung và TSC nói riêng
là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.

10
1.1.3.3. Tài sản nhà nước là nguồn vốn tiềm năng cho đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế của
mỗi quốc gia nhằm đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế- xã
hội và để phát triển toàn diện vững chắc của nền kinh tế – xã hội. Nhờ đầu tư phát
triển TSC được bảo tồn và phát triển và đương nhiên năng lực sản xuất tăng lên.
Nhưng muốn đầu tư phát triển phải có vốn đầu tư, vốn đầu tư ở đây là đại diện của
tài sản, hàng hoá và dịch vụ đưa vào sản xuất. Muốn có vốn cho đầu tư phát triển
mọi quốc gia đều phải khai thác từ các nguồn tiết kiệm, nguồn nhân lực, nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nguồn tài sản vô hình. Nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nguồn tài sản vô hình chính là những tài sản quốc gia, trong đó tài sản nhà nước
chiếm vai trò chủ yếu. Các tài sản này là những nguồn tài chính tiềm năng thể hiện
dưới dạng hiện vật. Các tài sản này dưới tác động ngoại lực (sức lao động của con
người) thì nó chuyển thành nguồn tài chính tiền tệ. Vì, nếu nguồn tài nguyên thiên
nhiên được sử dụng, khai thác vào sản xuất kinh doanh một cách tiết kiệm và có
hiệu quả, sẽ tạo điều kiện để phát triển sản xuất, đặc biệt là các ngành sản xuất nông
lâm nghiệp và các ngành công nghiệp hoạt động dựa trên nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Như vậy, chính nguồn tài nguyên thiên nhiên đó là vốn để đầu tư phát triển
sản xuất thay cho phần vốn mua nguyên liệu, nhiên liệu đưa vào sản xuất. Những
nước giàu có về nguồn tài nguyên thiên nhiên, thì không chỉ đảm bảo sản xuất phát
triển, mà còn có thể dành một phần tài nguyên thiên nhiên để bán, cho thuê, gọi vốn
liên doanh, liên kết để khai thác tài nguyên. Nguồn tài nguyên đã tạo nguồn vốn tiền
tệ để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.
1.1.3.4. Tài sản nhà nước đối với đời sống xã hội
Tài sản nhà nước được phân bổ ở khắp mọi miền đất nước, là tài sản – cơ sở
vật chất của các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các
cơ sở giáo dục và đào tạo công, y tế công; các cơ sở văn hoá nghệ thuật, thể dục thể
thao công; các cơ sở nghiên cứu và hoạt động khoa học công nghệ công…; các cơ sở
hoạt động dịch vụ công, tài sản kết cấu hạ tầng (hệ thống giao thông, điện, bưu
chính viễn thông, cấp thoát nước…), tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh; do đó,
TSC chẳng những có vai trò lớn đối với quá trình sản xuất xã hội mà còn có vai trò
lớn góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội, của
mọi thành viên trong xã hội trên các mặt cụ thể sau:
– Duy trì, phát triển các hoạt động của đời sống xã hội làm cho đời sống xã hội
của con người ngày càng phong phú và văn minh hơn trong mọi hoạt động của mình.

11
– Cải thiện và không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho con người cả về
mặt vật chất và tinh thần; Tài sản nhà nước ngày một phát triển và nâng cấp sẽ là
điều kiện vật chất đảm bảo cho con người được hưởng lợi từ các hoạt động sự
nghiệp công (giáo dục và đào tạo, khám chữa bệnh, thể dục thể thao, văn hoá nghệ
thuật,…), các hoạt động quản lý nhà nước, các nhu cầu thiết yếu trong đời sống hàng
ngày của con người: đi lại, giao lưu, sử dụng điện, nước,…
– Góp phần làm cho môi trường xã hội, môi trường sống ngày một tốt lên; nhất là
trong điều kiện của một nền kinh tế phát triển, hội nhập, vận hành theo cơ chế thị trường,
thì vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường xã hội, môi trường sống cho con người ở mỗi
quốc gia và toàn cầu đã và đang được cả nhân loại quan tâm; Tài sản nhà nước có vai trò
hết sức quan trọng để bảo vệ và giữ gìn môi trường xã hội, môi trường sống.
1.1.4 . Phân loại tài sản công
1.1.4.1. Phân loại theo thời hạn sử dụng
Theo cách phân loại này, TSC bao gồm các loại tài sản có thể sử dụng vĩnh viễn
không mất đi như tài nguyên đất, tài nguyên nước, không khí… và các tài sản có thời
hạn sử dụng nhất định như tài nguyên khoáng sản và các tài sản nhân tạo khác. Tuy
nhiên, việc phân loại ra tài sản sử dụng vĩnh viễn và tài sản sử dụng có hạn chỉ là tương
đối, vì ngay tài nguyên đất, nước, không khí, nếu không có biện pháp quản lý, sử dụng
và bảo vệ hữu hiệu, thì sẽ bị xói mòn, cằn cỗi, cạn kiệt hoặc ô nhiễm …
1.1.4.2. Phân loại theo nguồn gốc hình thành
Theo cách phân loại này, TSC gồm tài nguyên thiên nhiên và tài sản nhân tạo.
Tài nguyên thiên nhiên là các loại tài sản do thiên nhiên ban tặng cho
quốc gia và thuộc chủ quyền của quốc gia như: Đất, rừng tự nhiên, vùng trời,
vùng biển, mặt nước, khoáng sản trong lòng đất, những danh lam thắng cảnh,
không khí, môi trường …
Tài sản nhân tạo là tất cả các tài sản do con người tạo lập ra và được duy trì
qua các thế hệ như: Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các công trình văn hoá, các
cổ vật, nhà ở, nhà làm việc, nhà dùng vào sản xuất kinh doanh, phương tiện và thiết
bị làm việc, thiết bị máy móc sản xuất, tài sản tài chính… Tài sản nhân tạo chủ yếu
được hình thành từ nguồn tiền của NSNN và một phần là những tài sản mà Nhà
nước thu nạp được như các tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản hiến tặng của
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

12
1.1.4.3. Phân loại theo đối tượng quản lý, sử dụng tài sản
Theo cách phân loại này, tài sản nhà nước bao gồm:
– TSC khu vực hành chính sự nghiệp là những tài sản của nhà nước giao cho
cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công (đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước), đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ
chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp (gọi
chung là cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp) quản lý và sử dụng gồm:
+ Đất đai;
+ Nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất đai: trụ sở làm việc, nhà
công vụ, nhà công thự, cơ sở hoạt động sự nghiệp;
+ Các phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc, phương tiện thông tin, cứu
hoả và các tài sản khác.
– Tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia
bao gồm:
+ Hệ thống công trình giao thông vận tải: đường bộ, đường thuỷ, đường hàng
không, bến cảng, bến phà, bến xe, sân bay, nhà ga…
+ Hệ thống công trình thuỷ lợi: đê điều, hệ thống kênh mương, trạm bơm, hồ
chứa nước, đập thuỷ lợi…
+ Hệ thống công trình điện, chiếu sáng, cấp, thoát nước, công viên…
+ Hệ thống công trình văn hoá, di tích lịch sử đã được xếp hạng.
+ Các công trình kết cấu hạ tầng khác.
– TSC giao cho các doanh nghiệp quản lý, sử dụng, bao gồm: nhà xưởng,
trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải, vốn bằng tiền …
– Tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước theo quy định của pháp
luật bao gồm:
+ Tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;
+ Tài sản bị chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy, tài sản vắng chủ, vô chủ và các
tài sản khác được xác lập quyền sở hữu của nhà nước theo quy định của pháp luật.
+ Tài sản do các tổ chức biếu tặng, đóng góp hoặc giao lại Nhà nước và tài
sản viện trợ của Chính phủ và tổ chức phi Chính phủ.
– Tài sản dự trữ quốc gia.
– Đất đai, rừng tự nhiên, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất,
nguồn lợi thủy sản, vùng trời, thềm lục địa (sau đây gọi chung là đất đai và các tài
nguyên quốc gia khác).

13
1.2. Quản lý TSC trong cơ quan Nhà nước
1.2.1. Khái niệm về quản lý tài sản nhà nước trong các cơ quan Nhà nước.
Thuật ngữ “quản lý” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực như
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý tài chính .v.v… Theo giáo trình “Quản lý
kinh tế” của Học viện Hậu cần “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng
của chủ thể lên các khách thể nhằm đạt được mục tiêu đã định trước” [29, tr 35].
Quản lý TSC là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế. Thực chất của quản
lý TSC là các chủ thể quản lý sử dụng các phương pháp, các công cụ tác động tới đối
tượng quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong lĩnh vực quản lý TSC.
Theo giáo trình Tài chính dự toán của Học viện Hậu cần “Quản lý tài sản nhà
nước có thể được hiểu là quá trình đưa ra quyết định và thực hiện liên quan đến việc
đầu tư mua sắm, khai thác sử dụng và thanh lý tài sản nhà nước” [31, tr 125].
Xuất phát từ vai trò, chức năng của các cơ quan Nhà nước và đặc điểm của
TSC, theo quan điểm của học viên: Quản lý TSC trong các CQNN là sự tác động có
tổ chức và bằng các nguyên tắc, phương pháp thông qua khung khổ pháp lý của bộ
máy nhà nước đối với TSC trong các CQNN nhằm bảo đảm TSC được đầu tư xây
dựng mới, mua sắm, quản lý, sử dụng có hiệu quả. Như vậy quản lý TSC là hoạt động
của các chủ thể được xác định theo quy định của pháp luật, thông qua việc sử dụng các
phương pháp và công cụ quản lý, được thực hiện từ khâu đầu tư mua sắm để hình
thành TSC, đến quản lý khai thác sử dụng và thanh lý TSC, đáp ứng tốt mọi nhiệm vụ
được giao. Chủ thể quản lý TSC trong các CQNN là các CQNN trong đó trực tiếp là
người đứng đầu CQNN dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, vai trò tham mưu và trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan quản lý công sản, cùng với sự tham
gia của mọi tổ chức, cá nhân trong CQNN có liên quan đến sử dụng TSC.
1.2.2 Nguyên tắc quản lý tài sản nhà nước
Tài sản nhà nước phong phú về chủng loại, mỗi loại có tính năng, công dụng
khác nhau, được phân bổ ở khắp mọi miền đất nước, được giao cho các ngành, các cấp,
các tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phục vụ cho các hoạt động: quản lý nhà nước,
giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, quốc phòng, an
ninh, ngoại giao… từ cấp cơ sở đến các hoạt động ở Trung ương. Do đó, việc quản lý
tài sản nhà nước phải được tổ chức thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau:
– Thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời phải có cơ chế,
chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có tính đặc thù riêng, đối
với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt động có tính

14
đặc thù riêng. Thống nhất quản lý trên cơ sở để đảm bảo cơ chế, chính sách, chế độ
quản lý tài sản nhà nước phù hợp với đặc điểm thứ nhất và đặc điểm thứ hai của tài
sản nhà nước. Nội dung của thống nhất quản lý là Chính phủ thống nhất quản lý tài
sản nhà nước; Quốc hội, Chính phủ quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài
sản áp dụng chung cho mọi tài sản và quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý
cụ thể đối với những tài sản có giá trị lớn mà hầu hết cơ quan nhà nước, các đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công và các tổ chức khác được Nhà
nước giao trực tiếp sử dụng (có thể gọi là những tài sản sử dụng phổ biến). Trên cơ sở
cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản nhà nước do Quốc hội, Chính phủ quy định;
các Bộ, ngành, địa phương quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý đối với những
tài sản có tính đặc thù riêng (có thể gọi là những tài sản có tính đặc thù)
– Thực hiện quản lý tài sản nhà nước theo tiêu chuẩn, định mức. Quản lý tài
sản nhà nước theo tiêu chuẩn định mức để công tác quản lý tài sản nhà nước phù
hợp với đặc điểm thứ nhất, thứ hai và thứ ba của tài sản nhà nước; đồng thời để
thống nhất tiêu chuẩn, định mức sử dụng từng loại tài sản cho từng đối tượng sử
dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người đó trang bị tuỳ tiện theo ý muốn của mình,
tuỳ thuộc vào khả năng vốn liếng (kinh phí) của đơn vị; tiêu chuẩn, định mức sử
dụng tài sản còn là thước đo đánh giá mức độ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản
nhà nước của từng đơn vị; mặt khác, tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản là cơ sở
để thực hiện công tác quản lý, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước.
Chính phủ hoặc Chính phủ phân cấp cho Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn,
định mức sử dụng đối với những tài sản có giá trị lớn được sử dụng phổ biến ở các
cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các đơn vị sự nghiệp
công và các tổ chức khác. Trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản đối với
các tài sản sử dụng phổ biến, các Bộ, ngành, địa phương quy định tiêu chuẩn, định
mức sử dụng đối với những tài sản sử dụng có tính đặc thù.
– Thực hiện phân cấp quản lý tài sản nhà nước. Phân cấp quản lý tài sản nhà
nước để đảm bảo việc quản lý tài sản nhà nước phù hợp với đặc điểm thứ ba của tài
sản nhà nước; đồng thời cũng được xuất phát từ phân cấp trách nhiệm, quyền hạn
quản lý kinh tế – xã hội giữa Quốc hội, Chính phủ với các cấp chính quyền địa
phương, giữa Chính phủ với các Bộ, ngành về việc xây dựng cơ chế, chính sách,
chế độ quản lý tài sản; về xây dựng và ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài
sản; về quản lý tài sản nhà nước …

15
– Quản lý tài sản nhà nước phải gắn với quản lý ngân sách nhà nước. Xuất phát
từ “tài sản nhà nước là những tài sản được hình thành từ ngân sách nhà nước…” và
mọi chi phí trong quá trình sử dụng tài sản đều do ngân sách nhà nước đảm bảo (trừ
một số trường hợp cá biệt); do đó, việc quản lý tài sản nhà nước phải gắn với quản lý
ngân sách nhà nước. Hay nói một cách khác, quản lý tài sản nhà nước là quản lý ngân
sách nhà nước đã được chuyển hoá thành hiện vật – tài sản. Quản lý tài sản nhà nước
phải gắn với quản lý ngân sách nhà nước có nghĩa là mọi cơ chế, chính sách, chế độ
quản lý tài sản nhà nước, định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản nhà nước phải phù hợp
với quy định về quản lý ngân sách nhà nước, việc trang bị tài sản nhà nước cho các cơ
quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các
tổ chức khác phải phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và được lập dự toán,
chấp hành dự toán theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
1.2.3. Các công cụ quản lý tài sản nhà nước
Nhà nước phải thực hiện chức năng, vai trò quản lý TSC; cũng như các lĩnh
vực kinh tế – xã hội khác, để thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với TSC,
Nhà nước phải sử dụng tổng hợp hệ thống các công cụ và biện pháp quản lý gồm:
hành chính, tổ chức, pháp luật kinh tế, kế toán, thống kế, tuyên truyền giáo dục.
Trong đó, những công cụ và biện pháp chủ yếu gồm:
Thứ nhất, Xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về quản lý tài sản nhà
nước. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng luật pháp. Luật pháp vừa là công cụ
vừa là biện pháp nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Pháp luật do Nhà nước
quy định, buộc mọi cơ quan, đơn vị sử dụng tài sản nhà nước theo ý chí của Nhà
nước – người chủ sở hữu tài sản nhà nước. Pháp luật quy định phạm vi tài sản nhà
nước, các nguyên tắc quản lý, sử dụng và xử lý tài sản nhà nước buộc mọi người sử
dụng tài sản và cơ quan quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước đều phải tuân thủ.
Quản lý TSC theo pháp luật được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở
nhiều nước thường có các Bộ Luật về tài sản quốc gia (Tài sản nhà nước), đồng thời
có các luật quản lý chuyên ngành (tài sản cụ thể) như Luật Đất đai, Luật Khoáng
sản … Ở Việt Nam, tuy chưa có Bộ luật chung về tài sản nhà nước, nhưng trong
Hiến pháp và Bộ luật dân sự đã định ra những nguyên tắc cơ bản về quản lý tài sản
nhà nước như phạm vi của tài sản nhà nước, nhiệm vụ và quyền hạn của Nhà nước
– Người đại diện chủ sở hữu và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã
hội, các tổ chức kinh tế được sử dụng tài sản nhà nước. Đồng thời, cũng đã có các
luật áp dụng cho từng loại tài sản nhà nước như Luật Đất đai, Luật Khoáng sản,

16
Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Dầu khí, Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn
lợi thuỷ sản.v.v… Các luật về tài sản nhà nước không những là công cụ quan trọng
để thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với tài sản mà còn thực hiện vai trò
chủ sở hữu tài sản nhà nước của Nhà nước.
Thứ hai, Hệ thống định mức sử dụng TSC trong các CQNN
Trên cơ sở luật quản lý, sử dụng TSC, các cơ quan có thẩm quyền theo phân
cấp xây dựng và ban hành định mức sử dụng TSC bao gồm định mức sử dụng
PTVT, trụ sở làm việc và các tài sản khác. Định mức là cơ sở để đầu tư mua sắm,
cấp phát và trang bị TSC cho các đơn vị và cá nhân làm việc trong các cơ quan nhà
nước. Hệ thống định mức hiện đang được áp dụng trong quản lý và sử dụng TSC
bao gồm:
Nghị định số 152/2017/NĐ-CP ngày 27/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ
quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc tại các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp
Quyết định số 32/2015/QĐ-TTg ngày 04/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ
Quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô trong các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Thông tư số 159/2015/TT-BTC ngày 15/10/2015 của Bộ Tài chính hướng
dẫn một số điều của Quyết định số 32/2015/QĐ-TTg ngày 04/8/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử
dụng xe ô tô trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Quyết định số 58/2015/QĐ-TTg ngày 17/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ
quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng máy móc, thiết bị của cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập.
Thông tư số 19/2016/TT-BTC ngày 01/02/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Quyết định số 58/2015/QĐ-TTg ngày 17/11/2015 của Thủ tướng Chính
phủ quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng máy móc, thiết bị của
cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, Sử dụng hệ thống các công cụ đòn bẩy kinh tế để quản lý tài sản
nhà nước, bao gồm: kế hoạch hoá, kế toán, thống kê, giá cả, tài chính, thuế, tín
dụng… Trong đó, công cụ và biện pháp tài chính có vai trò quan trọng góp phần
thúc đẩy sự hình thành và phát triển tài sản nhà nước, khai thác, sử dụng tài sản nhà

17
nước tiết kiệm và có hiệu quả, đặc biệt là công cụ ngân sách, kế toán, định giá và
đánh giá lại tài sản.
Thứ tư, Sử dụng công cụ kiểm tra, kiểm soát thường xuyên. Kiểm tra, kiểm
soát của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước. Kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước cũng được thực hiện đối với các
ngành, các cấp là cơ quan chủ quản cấp trên của đơn vị được Nhà nước giao trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước là công cụ
hướng dẫn việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo đúng quy định của pháp luật;
đồng thời kiểm tra, kiểm soát để phát hiện, ngăn chặn các hiện tượng sử dụng tài
sản nhà nước không đúng quy định của pháp luật, sử dụng tài sản lãng phí, làm thất
thoát tài sản hoặc có hành vi tham ô tài sản nhà nước. Qua thực hiện kiểm tra, kiểm
soát, cơ quan nhà nước thực hiện sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách,
chế độ quản lý tài sản nhà nước cho phù hợp với hệ thống chính sách của Nhà nước,
nhất là chính sách tài chính – ngân sách và phù hợp với thực tế. Trên những ý nghĩa
đó, kiểm tra, kiểm soát là công cụ hiệu quả góp phần tăng cường công tác quản lý
tài sản nhà nước.
1.2.4. Nội dung quản lý tài sản công trong các cơ quan Nhà nước
Nội dung cụ thể về quản lý TSC trong các cơ quan Nhà nước có thể không
giống nhau, do chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan khác nhau, đặc điểm hình
thành tài sản và yêu cầu quản lý TSC trong cơ quan cũng khác nhau. Song, căn cứ
vào các quy định pháp lý của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, các Nghị định
có liên quan của Chính phủ và thực tiễn quản lý nội dung cơ bản về quản lý TSC
trong các cơ quan nhà nước bao gồm:
1.2.4.1. Quản lý quá trình hình thành tài sản.
Quá trình hình thành tài sản công trong các cơ quan Nhà nước là việc Nhà
nước thực hiện việc đầu tư, mua sắm và trang cấp tài sản công cho các đơn vị.
a. Nguyên tắc đầu tư, mua sắm, trang cấp
– Nhà nước từng bước trang cấp đủ tài sản cho các cơ quan Nhà nước để phục
vụ hoạt động chung và công tác chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
– Việc trang cấp tài sản cho các CQNN được thực hiện căn cứ vào tổ chức biên
chế, tiêu chuẩn định mức sử dụng Tài sản công, nhu cầu sử dụng tài sản phục vụ hoạt
động theo chức năng, nhiệm vụ được giao của từng CQNN, khả năng ngân sách của
mỗi cấp, nguồn kinh phí được phép sử dụng của mỗi cơ quan và nguồn tài sản từ các
dự án hoặc đơn vị khác mà Nhà nước có thể xử lý điều chuyển đến cho CQNN.

18
b. Nguồn kinh phí và hình thức đầu tư, mua sắm, trang cấp
– Kinh phí do NSNN cấp hàng năm cho CQNN để đầu tư xây dựng, mua sắm
mới và sửa chữa lớn tài sản.
– Nguồn thu từ bán, chuyển nhượng, thanh lý tài sản của cơ quan theo quyết
định của cấp có thẩm quyền và các nguồn thu khác mà CQNN được phép sử dụng
để đầu tư xây dựng, cải tạo, mua sắm mới tài sản theo quy định của pháp luật.
– Nguồn vốn viện trợ, dự án thuộc Nhà nước quản lý cấp cho CQNN để đầu
tư xây dựng, mua sắm mới tài sản.
Theo các nguồn kinh phí, tài sản công trong các CQNN được trang cấp dưới
các hình thức sau:
– Được cấp phát kinh phí từ NSNN thuộc chỉ tiêu dự toán ngân sách được giao.
– Được cấp phát bằng tài sản hiện vật.
– Được phép sử dụng nguồn tài chính khác ngoài NSNN theo quy định của
pháp luật, như: Nguồn thu được từ xử lý tài sản, tiếp nhận viện trợ, biếu tặng…
– Được nhận tài sản công do Nhà nước điều chuyển từ các cơ quan, tổ chức,
đơn vị khác.
c. Thẩm quyền quyết định đầu tư, mua sắm, trang cấp.
– Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và khả năng quản lý, thực
hiện dự án, Nhà nước quyết định đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho các cơ quan
Nhà nước.
– Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập mới hoặc giao cho tổ chức hiện
có làm chủ đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan thuộc Trung ương quản
lý. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập mới hoặc giao cho tổ chức thực
hiện có làm chủ đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các CQNN thuộc địa phương
quản lý.
Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định một trong
hai phương thức đầu tư xây dựng sau:
+ Giao cho tổ chức có chức năng đầu tư xây dựng trụ sở làm việc.
+ Giao ngân sách cho CQNN trực tiếp sử dụng trụ sở làm việc thực
hiện đầu tư xây dựng.
Thực hiện đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các CQNN phải theo đúng
quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng.
-Thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản công được quy định như sau:

19
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, người đứng đầu cơ quan khác ở
Trung ương quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định mua sắm Tài sản
công tại cơ quan Nhà nước thuộc phạm vi quản lý.
+ Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp thẩm quyền quyết định mua sắm tài
sản công tại CQNN thuộc phạm vi quản lý của địa phương.
Việc mua sắm tài sản công được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
+ Mua sắm tập trung: áp dụng đối với các loại tài sản có số lượng mua sắm
nhiều, tổng giá trị mua sắm lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ, hiện đại. Danh
mục tài sản mua sắm tập trung do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan Trung ương, chủ
tịch UBND cấp tỉnh quyết định.
+ CQNN được giao quản lý, sử dụng tài sản thực hiện mua sắm; Thủ trưởng
cơ quan Nhà nước quyết định kế hoạch và danh mục tài sản và chỉ đạo thực hiện
mua sắm theo chế độ quy định.
1.2.4.2. Quản lý quá trình sử dụng tài sản công trong các CQNN.
a. Đăng ký tài sản công
Mọi tài sản công trong các CQNN dù được hình thành từ bất cứ nguồn nào
trước khi đưa vào sử dụng hoặc các loại tài sản chưa thực hiện kê khai đăng ký lần
đầu đều phải tiến hành đăng ký kê khai lần đầu để phục vụ cho công tác quản lý,
hạch toán kế toán tài sản cố định. Trong kê khai đăng ký lần đầu tài sản cần thực
hiện đúng các nội dung sau:
– Xác định số lượng, chất lượng tài sản: Căn cứ vào các hồ sơ có liên quan,
tùy từng trường hợp cụ thể mà bộ phận kiểm kê hoặc hội đồng định giá tài sản kiểm
tra, đánh giá xác định số lượng, chất lượng tài sản.
– Phân loại tài sản: thông thường ở các CQNN, tài sản công được xếp vào các
loại: Tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dùng và tài sản phục vụ công tác quản lý. Tuy
nhiên, về nguyên tắc, tài sản đặc biệt trong CQNN, đơn vị lực lượng vũ trang không
kê khai đăng ký, phân loại. Căn cứ vào số lượng, chất lượng, tài sản, CQNN tiến
hành phân loại tài sản chuyên dùng và tài sản phục vụ công tác quản lý (bao gồm cả
quyền sử dụng đất).
– Xác định nguồn hình thành tài sản: Tài sản công được hình thành từ nguồn
nào (nguồn NSNN hoặc có nguồn gốc từ NSNN, nguồn khác theo quy định) thì kê
khai vào đúng nguồn đó.
– Xác định giá trị tài sản: Trước khi xác định giá trị tài sản cần phân biệt rõ
tài sản có hồ sơ và tài sản không có hồ sơ. Riêng đối với tài sản không có hồ sơ,

20
phải lập biên bản định giá tài sản cố định trình thủ trưởng cơ quan quyết định. Việc
xác định giá trị tài sản phải theo đúng nguyên tắc quy định.
– Kê khai tài sản lần đầu: Mọi tài sản cố định được lập thẻ tài sản cố định và
hồ sơ kê khai tài sản cố định có các chứng từ liên quan theo quy định, tùy theo
nguồn hình thành tài sản.
– Hạch toán kế toán: Cần chú ý nguyên tắc tài sản cố định được hạch toán
đầy đủ, chính xác, kịp thời cả về số lượng và giá trị theo đúng quy định của pháp
luật về kế toán – thống kê.
b. Bảo dưỡng, sửa chữa, lập và quản lý hồ sơ tài sản công
– Tài sản công phải được bảo dưỡng, sửa chữa theo đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức kinh tế – kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền quy định. Việc lập dự toán,
chấp hành và quyết toán kinh phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công thực hiện theo
Luật NSNN.
Các chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế – kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa Tài
sản công thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ quản lý chuyên hệ thống do Bộ
quản lý chuyên hệ thống quy định. Các trường hợp khác do Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan Trung ương, chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định hoặc phân cấp cho cơ quan
được giao quản lý, sử dụng Tài sản công quy định chế độ bảo dưỡng, sửa chữa tài
sản thuộc phạm vi quản lý.
– Theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, hồ sơ tài sản công gồm:
+ Hồ sơ liên quan đến việc hình thành, biến động tài sản công theo quy định
của pháp luật.
+ Báo cáo kê khai tài sản công theo quy định.
+ Báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản công theo quy định.
+ Cơ sở dữ liệu về tài sản công.
+ Quản lý, lưu trữ hồ sơ tài sản công.
Cơ quan Nhà nước được giao quản lý, sử dụng tài sản công phải quản lý, lưu
trữ đầy đủ các hồ sơ về tài sản do cơ quan mình quản lý, sử dụng. Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý, lưu trữ
các hồ sơ tài sản công sau:
+ Báo cáo kê khai Tài sản công, báo cáo tình hình quản lý, sử dụng Tài sản
công của các cơ quan thuộc phạm vi quản lý.
+Báo cáo tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng Tài sản công của các cơ quan
Nhà nước của Bộ, cơ quan Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *