Tiểu luận
Kỹ năng của Luật sư trong việc hỗ trợ
khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra tòa án
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân”. Từ pháp lệnh thừa kế năm 1990 đến
BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và các văn bản pháp luật hiện hành thể
hiện quan điểm không ngừng hoàn thiện những quy định pháp luật về thừa
kế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên, trên thực tế số lượng các tranh chấp thừa kế vẫn có số lượng
tương đối lớn vì tính chất đặc biệt của loại tranh chấp này là liên quan đến di
sản của người đã chết. Đây cũng là một loại tranh chấp mà khách hàng
thường yêu cầu luật sư giúp đỡ trong việc khởi kiện ra tòa án.
Vậy để giúp khách hàng trong việc khởi kiện tranh chấp thừa kế ra
Tòa án Luật sư cần phải có những kỹ năng gì? Chúng ta cùng tìm hiểu trong
nội dung tiểu luận sau với đề tài: “Kỹ năng của Luật sư trong việc hỗ trợ
khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra tòa án”
I. Khái quát chung về thừa kế và tranh chấp thừa kế
Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người
còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định việc chuyển tài sản của
người chết cho người khác theo hai hình thức
– Theo di chúc: tức là người có tài sản lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình cho người khác.
– Theo pháp luật: tức là việc người thừa kế được nhận di sản thừa kế
trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp và một số
trường hợp đặc biệt khác mà pháp luật quy định.
Tranh chấp thừa kế là những xung đột, mâu thuẫn, bất đồng được bộc
lộ ra bên ngoài về quyền thừa kế, về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết
để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản…
II. Kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện
tranh
chấp
thừa
kế
ra
tòa
án
1.
Kỹ
năng
tiếp
xúc
với
khách
hàng
1.1 Trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp
Trước tiên Luật sư cần xác định được yêu cầu cụ thể của khách hàng,
những nguyện vọng của họ khi muốn yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp
thừa kế này. Để hiểu được những yêu cầu và mong muốn cụ thể đó Luật sư
phải nắm được nội dung của vụ việc tranh chấp. Luật sư có thể yêu cầu
khách hàng trình bày vụ việc và yêu cầu họ cung cấp các tài liệu về vụ việc.
Khi đã có một cái nhìn sơ lược về vụ việc điều quan trọng tiếp theo là
Luật sư phải chỉ ra được loại quan hệ pháp luật tranh chấp có thực sự phải là
tranh chấp thừa kế hay không nếu phải thì thuộc loại nào:
– Tranh chấp về quyền thừa kế: Quyền yêu cầu chia di sản thừa kế,
yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc yêu cầu bác bỏ quyền thừa
kế của người khác;
– Tranh chấp thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật;
– Tranh chấp về di sản thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất;
– Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh
toán các
khoản chi từ di sản.
Tiếp theo, Luật sư cũng phải đánh giá một cách sơ bộ điều kiện khởi
kiện, tư vấn cho khách hàng những vấn đề tố tụng, phân tích những thuận lợi
và khó khăn của việc khởi kiện.
1.2 Tư vấn cho khách hàng về việc có khởi kiện hay không
* Phân tích những lợi ích của việc khởi kiện hay không
Luật sư căn cứ vào các quy định pháp luật để tư vấn cho khách hàng
những lợi thế và bất lợi của họ khi quyết định đem vụ việc ra tòa án để giải
quyết. Từ sự tư vấn của luật sư, khách hàng sẽ quyết định có khởi kiện hay
không, đó chính là quyền tự định đoạt mà pháp luật quy định cho họ.
Thông thường thì các tranh chấp thừa kế xảy ra giữa những người
trong một gia đình, tính chất căng thẳng của mối quan hệ giữa họ đã lên tới
mức muốn pháp luật phân xử nên bất lợi lớn nhất của khách hàng khi khởi
kiện những tranh chấp này ra tòa là việc làm rạn nứt, nghiêm trọng thêm
mâu thuẫn gia đình. Mặt khác, khi khởi kiện tranh chấp thừa kế ra tòa khách
hàng sẽ phải đối mặt với một thời gian có thể rất dài để thao đuổi vụ việc.
Hơn thế nữa họ cũng phải đối mặt với một mức án phí lớn.
Luật sư cũng cần chỉ cho khách hàng thấy được khả năng thắng kiện
đến đâu nếu họ khởi kiện ra tòa án cũng như khả năng thực tế bản án sẽ
được thi hành thế nào.
Một điều nữa trong nội dung này là luật sư cũng nên hướng dẫn khách
hàng nắm bắt một cách sơ bộ những tài liệu, chứng cứ cần thiết để tòa án
chấp nhận xem xét, giải quyết vụ việc, hướng dẫn họ thu thập chứng cứ, và
tìm hiểu rõ khả năng thu thập chứng cứ tài liệu của khách hàng để chủ động
hơn trong việc này.
* Phân tích điều kiện khởi kiện của khách hàng
Thứ nhất: về chủ thể khởi kiện
Luật sư có thể hướng dẫn cho khách hàng tự mình khởi kiện hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện theo quy định tại Điều 161Bộ
luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS).
Khi khởi kiện tranh chấp thừa kế ra tòa án, cũng như các loại vụ việc
dân sự khác, chủ thể khởi kiện là cá nhân phải thỏa mãn điều kiện về năng
lực hành vi dân sự và là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Khi tiếp xúc với khách hàng Luật sư cũng cần tư vấn và xem xét về tư
cách chủ thể khởi kiện liên quan trực tiếp đến quyền khởi kiện của khách
hàng để có những tư vấn về điều kiện khởi kiện theo đúng quy định của
pháp luật. Đối với trường hợp khách hàng ủy quyền cho chính luật sư hoặc
cho người khác tham gia tố tụng thì luật sư cần hướng dẫn khách hàng lập
giấy ủy quyền theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai: điều kiện về tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc
Thầm quyền theo loại việc: tranh chấp thừa kế là một loại tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định tại khoản 5 Điều 25
BLTTDS.
Về thẩm quyền theo cấp tòa: Luật sư cần xác định vụ án khởi kiện
đúng cấp tòa có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 33, 34,
35, 36, 37 BLTTDS, Nghị Quyết số 32/2004/QH11, Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP.
Ngoài việc lưu ý nguyên tắc xác định thẩm quyền đối với cấp tòa,
những trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh theo Khoản 1 Điều
33 BLTTDS. Luật sư cần lưu ý trường hợp “đương sự””ở nước ngoài theo
quy định tại Điều 56 BLTTDS bao gồm cả người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan. Vì vậy, với những vụ việc mà có đương sự không phải là người
thuộc các diện thưa kế nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước
ngoài hoặc việc giải quyết vụ án cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh
sự của Việt Nam ở nước ngoài thì sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
Luật sư cũng cần lưu ý các trường hợp tranh chấp di sản thừa kế là bất
động sản áp dụng quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 36 BLTTDS và thẩm
quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Thứ ba: Về thời hiệu khởi kiện
Có hai loại thời hiệu khởi kiện đối với vụ án tranh chấp thừa kế:
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là thời hạn mà người thừa kế
được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo quy định
tại Điều 645 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Khi xem xét điều kiện về thời hiệu khởi kiện Luật sư cần lưu ý các
quy định về thời hiệu khác với BLDS đó là:
Vụ án có rơi vào trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu khởi
kiện theo quy định tại Điều 161 BLDS 2005: Do sự kiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện không thể khởi kiện
trong phạm vi thời hiệu; Chưa có người đại diện trong trường hợp người có
quyền khởi kiện chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự; Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì
lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện trong trường hợp
người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết;
– Các quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại
Điều 162 BLDS 2005;
– Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với
việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990).
Việc xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế trên thực tế cũng tương đối
phức tạp liên quan đến khá nhiều các văn bản khác nhau và việc xác định
thời điểm mở thừa kế. Đối với việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp
lệnh thừa kế (ngày 30/8/1990), theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh
thừa kế thì thời hiệu khởi kiện đến hết ngày 9/9/2000. Tuy nhiên, theo
hướng dẫn tại Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 25/8/1998 của Uỷ ban
thường vụ quốc hội từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/1998 không tính vào
thời hiệu khởi kiện đối với giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày
1/7/1991. Do vậy, thời hiệu khởi kiện loại việc này được tính đến ngày
9/3/2003. Bắt đầu từ ngày 10/3/2003 đương sự không còn quyền khởi kiện
đối với những vụ án thừa kế có thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990.
Đối với những vụ án thừa kế có thời điểm mở thừa kế từ ngày 10/9/1990 đến
trước ngày 1/7/1991 đây cũng là loại vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết do đợi
Nghị quyết 58/1998, thời gian từ 1/7/1996 đến 31/1/21998 cũng không tính
vào thời hiệu khởi kiện, do vậy những vụ án thừa kế có thời hiệu khởi
kiện trong khoảng thời gian từ 10/9/1990 đến ngày 30/6/1991 đến 1/1/2004
mới hết thời hiệu khởi kiện.
Ngoài ra Luật sư cũng cần lưu ý quy định về “không áp dụng thời
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế’ được hướng dẫn tại Mục 2 Phần I Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ
thời điểm
mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa
kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời
hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và
đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển
thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án
giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp
dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Hướng dẫn này cho thấy có sự chuyển hóa về quan hệ giữa yêu cầu
chia thừa kế và yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hiệu khởi kiện về
thừa kế. Khi đương sự có yêu cầu chia tài sản chung ở thời điểm hết thời
hiệu khởi kiện về thừa kế, Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết khi có tài liệu thể
hiệncác
đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế, và có đều thừa
nhận di
sản do người chết để lại chưa chia.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế hiện nghĩa vụ do người
chết để
lại, thanh toán các khoản chi từ di sản:
– Đối với việc mở thừa kế trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế thì
thời hiệu khởi kiện được xác định là 3 năm kể từ ngày banh hành Pháp lệnh
thừa kế (khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990);
– Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế
(30/8/1990) thời hiệu khởi kiện được xác định là 3 năm kể từ thời điểm mở
thừa kế (khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990);
Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/2005: áp
dụng thời hiệu khởi kiện 2 năm quy định tại Điều 159 BLTTDS để xác định
thời hiệu khởi kiện về yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người
chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản (do tại Điều 648 BLDS 1996
không quy định về thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu này);
– Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày 1/1/2006 thời hiệu khởi kiện về
về yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán
các khoản chi từ di sản được xác định là 3 năm kể từ ngày người có di sản
thừa kế chết (Điều 645 BLDS 2005).
Thứ tư: Điều kiện về hòa giải ở cơ sở đối với tranh chấp thừa kế
có liên quan đến quyền sử dụng đất
Nếu tranh chấp thừa kế mà liên quan đến quyền sử dụng đất thì theo
quy định tại Điều 135, 136 Luật Đất đai năm 2003 thì các tranh chấp này cần
phải được hòa giải tại cơ sở (UBND xã, phường, thị trấn). Những trường
hợp này Luật sư cần hướng dẫn khách hàng làm đơn đề nghị UBND xã,
phường, thị trấn hòa giải. Nếu kết quả hòa giải là không thành hoặc không
hòa giải được thì mới có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền.
2.2 Hướng dẫn khách hàng những vấn đề về thủ tục khởi kiện
Thứ nhất là nghĩa vụ tạm ứng án phí đối với yêu cầu khởi kiện
Luật sư cần lưu ý giải thích cho khách hàng các quy định của pháp
luật hiện hành về án phí: Chương IX, Mục 1 của BLTTDS, Pháp lệnh về Án
phí, Lệ phí năm 2009 của UBTVQH. Trường hợp khách hàng có khó khăn
về kinh tế, Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng làm đơn xin miễn giảm tiền
tạm ứng án phí. Đơn này phải được UBND xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ
chức xã hội nơi cư trú, làm việc của khách hàng chứng nhận thì tòa
mới xem
xét, giải quyết.
Thứ hai: Hướng dẫn khách hàng thu thập, bổ sung tài liệu cần thiết
cho việc khởi kiện
Luật sư cần hướng dẫn khách hàng thu thập các chứng cứ để xác định
tổng thể di sản thừa kế, xác định phần đóng góp của những người liên quan,
xác định đồng chủ sở hữu của người để lại di sản, thu thập các chứng cứ về
nghĩa vụ tài sản và chi phí liên quan đến quyền thừa kế được thanh toán từ di
sản, các chứng cứ chứng minh các điểm tranh chấp về quyền thừa kế.
2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
* Hồ sơ khởi kiện vụ án tranh chấp thừa kế gồm các giấy tờ sau:
– Đơn khởi kiện
– Các giấy tờ về quan hệ giữa người khởi kiện và người để lại tài sản;
giấy khai sinh, CMTND, giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy
giao
nhận nuôi con nuôi để xác định diện và hàng thừa kế;
– Di chúc (nếu có);
–
Giấy
chứng
tử
của
người
để
lại
di
sản
thừa
kế;
– Bản kê khai các di sản;
– Các giấy tờ, tài liệu chứng minh sở hữu của người để lại di sản và
nguồn gốc di sản của người để lại di sản;
– Các giấy tờ khác: Biên bản giải quyết trong họ tộc, biên bản giải
quyết tại UBND xã, phường (nếu có), tờ khai khước từ nhận di sản
(nếu có).
Luật sư cũng cần lưu ý chuẩn bị các tài liệu chứng minh vụ việc còn
thời hiệu khởi kiện. Giấy tờ chứng minh trong trường hợp này là giấy chứng
tử của người để lại di sản để xác định rõ ràng thời điểm mở thừa kế.
Việc lập hồ sơ thừa kế phải đảm bảo các nội dung sau: xác định người
để lại di sản, các thời điểm mở thừa kế (một hay nhiều thời điểm mở
thừa
kế), diện và hàng thừa kế (theo quy định tại Điều 676 BLDS 2005),
mối
quan hệ giữa các thừa kế với nhau và những người để lại thừa kế.
Trường hợp các chứng cứ mà khách hàng cung cấp cho thấy đã hết
thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, cần xác định chứng cứ để có thể áp
dụng các trường hợp không tính vào thời hiệu, các trường hợp không áp
dụng thời hiệu.
* Thủ tục nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án
Nộp đơn khởi kiện, hồ sơ khởi kiện: Theo quy định tại Điều 166
BLTTDS Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng nộp đơn khởi kiện bằng hai
phương thức:
– Nộp đơn trực tiếp tại Tòa án và nhận biên lai xác nhận việc nộp đơn,
ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án;
– Gửi đến Tòa án bằng đường bưu điện và lấy xác nhận của bưu điện
về việc gửi đơn. Ngày khởi kiện được tính từ ngày có dấu bưu điện
nơi gửi.
Sau khi nộp đơn kiện, khi có thông báo của Tòa án về việc thụ lý vụ
án dân sự, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng đi nộp tiền tạm ứng án phí tại
cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đang thụ lý và nhận hai biên
lai thu tiền tạm ứng án phí của cơ quan thi hành án nộp lại một biên lai cho
Tòa án. Đó là một căn cứ để Tòa án thụ lý vụ án.
3. Kỹ năng thu thập chứng cứ
Luật sư hướng dẫn cho đương sự thu thập chứng cứ hoặc tự mình thu
thập. Nguyên tắc trong thu thập chứng cứ của một vụ án thừa kế là phải tập
trung vào những đặc trưng của án thừa kế, trọng tâm vấn đề cần chứng minh
trên yêu cầu của thân chủ và mong muốn mà thân chủ kỳ vọng. Việc thu
thập chứng cứ của luật sư cần tập trung vào việc làm sáng tỏ các vấn đề cần
chứng minh như: Thời điểm mở thừa kế, diện và hàng thừa kế, các vấn đề
khác có liên quan đến việc chia thừa kế…
Nếu là vụ án yêu cầu chia thừa kế theo di chúc thì Luật sư cũng phải
lưu ý đến việc thu thập các chứng cứ để chứng minh di chúc thuộc loại nào:
di chúc miệng hay bằng văn bản. Trường hợp di chúc bằng văn bản thì xác
định thuộc loại di chúc bằng văn bản nào (có người làm chứng hay không,
có chứng thực của UBND cấp xã hay di chúc có công chứng của nhà
nước…)
– Trường hợp di chúc bằng văn bản: cần thu thập các chứng cứ để
giúp Tòa án có cơ sỏ xem xét nội dung, hình thức của di chúc là phù hợp với
pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc tại thời điểm lập di chúc;
– Trường hợp di chúc bằng miệng: Cần có các chứng cứ chứng minh
có ai làm chứng cho việc lập di chúc miệng, người làm chứng có thuộc
trường hợp người không được làm chứng cho việc lập di chúc, xác định thời
gian từ khi người có di chúc miệng chết…
Trong những trường hợp cần thiết, Luật sư cần hướng dẫn đương sự
làm đơn đề nghị tòa án trưng cầu giám định, định giá tài sản thu thập và
cung cấp các tài liệu gửi kèm đơn đề nghị. Các chứng cứ này lưu ý phải là
tài liệu gốc để việc giám định có kết quả.
Trường hợp di chúc hợp pháp cần phải xem xét và chứng minh về
người được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc.
III. Kết luận:
Tranh chấp thừa kế là một loại hình tranh chấp khá phổ biến và phức
tạp trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại các cấp Tòa án, bao gồm
nhiều loại di sản như tiền, các loại giấy tờ có giá trị, động sản, bất động
sản,… Cũng giống như khi hỗ trợ khách hàng khởi kiện các loại tranh chấp
khác ra tòa án, Luật sư cần có một số kỹ năng chung như: tiếp xúc khách
hàng, tư vấn về điều kiện khởi kiện, tư vấn về hồ sơ và thủ tục khởi kiện, thu
thập chứng cứ, hướng dẫn khách hàng bổ sung tài liệu chứng cứ. Tuy nhiên,
do những đặc thù của tranh chấp thừa kế nên Luật sư cũng cần có thêm các
kỹ năng riêng ngoài các kỹ năng chung như đã trình bày ở trên nhằm dảm
bảo việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho khách hàng. Điều này đòi hỏi người luật
sư không ngừng nâng cao kiến thức trong các lĩnh vực nói chung, kiến thức
pháp luật nói riêng; trau dồi kỹ năng nghề nghiệp và luôn đặt đạo đức nghề
nghiệp lên hàng đầu là tiêu chí xuyên suốt khi luật sư vận dụng các kỹ năng
ấy để trợ giúp khách hàng, dẫn dắt họ đi trên một hành lang pháp lý an toàn,
đồng thời hướng đến việc tạo lập những mối quan hệ xã hội hài hòa nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp về thừa kế, thường là giữa
những người thân cận, quen biết lẫn nhau, góp phần xây dựng sự nghiệp
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội Công bằng- Dân chủ- Văn minh”