11327_Tiểu luận Tìm hiểu chợ Tình Tây Bắc

luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ HỌC

TIỂU LUẬN
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU CHỢ TÌNH TÂY BẮC

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa tộc ngƣời là một trong những tài nguyên du lịch quí giá của
quốc gia. Vùng văn hóa Tây Bắc là một trong những nơi có nhiều dân tộc
thiểu số sinh sống. Nơi đây còn lƣu giữ, bảo tồn đƣợc nhiều nét văn hóa
truyền thống tộc ngƣời rất đa dạng và độc đáo, một trong những nét văn hóa
đặc sắc đó là văn hóa Chợ tình.
Hai chữ “Chợ tình” đã đi vào cách hiểu của ngƣời dƣới xuôi nhƣ một
phạm trù xã hội về tình yêu, hôn nhân của nhiều dân tộc thiểu số sống ở
vùng Tây Bắc và Việt Bắc – Việt Nam. Đối với đồng bào vùng cao, chợ là
đầu mối, là điểm nút của hầu hết những sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Chính
vì vậy, đó không chỉ là nơi gặp gỡ để kinh doanh buôn bán hay trao đổi hàng
hóa thƣơng phẩm mà còn trở thành nơi để họp mặt hò hẹn, nơi trao gửi tình
cảm của những đôi lứa yêu nhau nhƣng vì một hoàn cảnh nào đó không thể
đến đƣợc với nhau, qua những buổi chợ mà trở nên ngƣời tri âm tri kỷ. Chợ
cũng là nơi để các đôi trai gái trẻ gặp nhau mà nên vợ nên chồng. Trong số
các Chợ tình vùng cao ở nƣớc ta, Chợ tình Tây Bắc đƣợc biết đến nhiều
nhất. Có thể nói, Chợ tình Tây Bắc đã kết tinh trong đó quan niệm sống
cùng những tinh hoa văn hóa và những phong tục tập quán đặc sắc của đồng
bào thiểu số các dân tộc nhƣ Dao, Mông, Nùng… Đó là một nét văn hóa đặc
sắc của Tây Bắc cần đƣợc bảo tồn và khai thác hiệu quả trong du lịch nhằm
giới thiệu cho du khách gần xa, tránh tình trạng bị phai mờ hoặc bị biến
tƣớng nhƣ hiện nay.
2. Mục đích của đề tài

Mục đích đầu tiên của đề tài là đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, lịch sử

2
phát triển và đặc trƣng văn hóa của một số Chợ tình tiêu biểu ở Tây Bắc.

Mục đích thứ hai của đề tài là đánh giá thực trạng khai thác tài
nguyên này trong hoạt động du lịch những năm gần đây ở Tây Bắc. Trên cơ
sở đó, tiến tới đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác
Chợ tình Tây Bắc trong kinh doanh du lịch.
3. Ý nghĩa của đề tài
Trƣớc đây, khi nói đến khu vực Tay Bắc, ngƣời ta thƣờng chỉ biết đến
một Chợ tình, đó là Chợ tình Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai. Nhận thức đƣợc giá
trị của tài nguyên văn hóa này, những năm gần đây ngành du lịch Sa Pa, Lào
Cai đã tìm cách đƣa Chợ tình vào khai thác trong hoạt động du lịch, nhƣng
việc khai thác không hiệu quả dẫn đến du khách có một cái nhìn hoàn toàn
sai lệch về Chợ tình, gây lãng phí rất lớn về nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó,
một số Chợ tình đặc sắc khác cũng là tài nguyên du lịch của vùng Tây Bắc
thì lại chƣa đƣợc quảng bá và biết đến. Vì vậy, giới thiệu về Chợ tình Tây
Bắc trong một cái nhìn hệ thống, nêu lên đƣợc những giá trị văn hóa đặc
trƣng, làm tiền đề cho việc khai thác hiệu quả trong du lịch là một trong
những việc làm cần thiết và có ý nghĩa, đóng góp vào sự phát triển của
ngành du lịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, do đƣợc xây dựng trên cơ sở vận dụng từ lý thuyết đến
thực tế và sử dụng thực tế để kiểm chứng lý thuyết, do vậy kết quả của đề tài
có thể đƣợc ứng dụng trong công tác quản lý, là cơ sở cho việc xây dựng các
tour du lịch, là nguồn tƣ tiệu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về nét văn
hóa Chợ tình ở Tây Bắc.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có một số tài liệu viết và giới thiệu về Chợ tình ở Tây Bắc song

3
việc thống kê, hệ thống một cách đầy đủ còn rất ít. Đồng thời phần lớn
những tài liệu đó mới dừng lại ở chỗ cung cấp thông tin, ít tài liệu đề cập
đến việc định hƣớng khai thác nguồn tài nguyên này cho hoạt động du lịch.
Có thể kể tên một số công trình viết về Tây Bắc và văn hóa tộc ngƣời ở Tây
Bắc nói chung nhƣ:
– Văn hóa các dân tộc Tây Bắc: Thực trạng và những vấn đề đặt ra,
tác giả Trần Văn Bính, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
– Văn hóa bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây
Bắc Việt Nam, tác giả Ngô Ngọc Thắng NXB Văn hóa Dân tộc, 2002.
– Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam, tác giả Bùi Văn Tinh, Ban dân
tộc Tây Bắc, 1975.
Trên các trang báo mạng cũng có nhiều bài viết sơ lƣợc, giới thiệu về
Chợ tình Sa Pa hay Chợ tình Châu Mộc ở Tây Bắc nhƣ “Chợ tình ở vùng
cao: Cái tình không bán” của Đỗ Anh Tuấn, báo VietNamNet; “Chợ tình Sa
Pa” của Tuấn Anh, Vietbao; phóng sự ảnh “Chợ tình Châu Mộc” của Lê
Anh Dũng…
Vì thế, với đề tài này, ngƣời thực hiện mong muốn đƣa ra một cái
nhìn hệ thống về các Chợ tình có ở Tây Bắc cũng nhƣ những bất cập trong
hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hƣớng cho việc khai
thác phục vụ phát triển du lịch trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu:
Là phƣơng pháp chính đƣợc sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập
thông tin tƣ liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới
đề tài nghiên cứu, ngƣời viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần

4
thiết, có đƣợc tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thực địa:
Quá trình thực địa giúp sƣu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận đƣợc
thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn
thiện đề tài .
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp.
Phƣơng pháp này giúp định hƣớng, thống kê, phân tích để có cách
nhìn tƣơng quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hƣởng của yếu tố tới hoạt
động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các
thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục
tiêu dự báo, các chƣơng trình phát triển, các định hƣớng, các chiến lƣợc và
giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Bố cục của khóa luận:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, kết cấu
của khóa luận gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung về vùng văn hóa Tây Bắc
Chƣơng 2: Nét văn hóa Chợ tình Tây Bắc
Chƣơng 3: Đề xuất một số giải pháp khai thác hiệu quả Chợ tình phục
vụ phát triển du lịch Tây Bắc.

5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG VĂN HÓA TÂY BẮC
1.1. Điều kiện địa lí – tự nhiên
Vùng văn hóa Tây Bắc là tên gọi một khu vực rộng lớn nằm về phía
Tây Bắc của thủ đô Hà Nội ,
của vùng du lịch
Bắc Bộ,
), với
diện tích gần 51.000 km²; có vị trí quan trọng đối với chiến lƣợc phát triển
du lịch Việt Nam, là một trong ba tiểu.
Tây Bắc là một miền núi cao hiểm trở, các dãy núi chạy theo hƣớng
Tây Bắc – Đông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km,
rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất nhƣ Phanxipăng cao
3.142m, Yam Phình cao 3096m, Pu Luông cao 2.983m.
Đất Tây Bắc còn đƣợc đồng bào gọi là đất “ba con sông”, tạo nên ba
“dải nƣớc màu: trắng, xanh, đỏ”, bởi vì sông Mã lắm thác ghềnh nên nhiều
sóng bạc đầu, dòng Nặm Tè (sông Đà) chảy giữa các triền núi đá grannít,
sâu thẳm xanh đen một màu, còn dòng Nặm Tao mang nặng phù sa thì còn
đƣợc gọi là sông Hồng. Ba con sông tự nhiên nhƣng trở thành biểu tƣợng
riêng của vùng đất. Chúng lại có ba màu của nắng, của cây và của đất.
Dẫu rằng cũng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhƣng do ở độ
cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi
cao nhƣ Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Bên cạnh đó do địa hình bị chia cắt bởi
các dãy núi, các dòng sông, khe suối đã tạo nên những thung lũng, có nơi
lớn thành lòng chảo nhƣ vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên. Vì thế, Tây Bắc đƣợc
coi là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, tạo nên sắc thái đa dạng cho

6
điều kiện tự nhiên cũng nhƣ bản sắc văn hóa nơi đây.
Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc gồm 6 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái. Trong đó:
– Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía tây bắ
, nằm ở tọa độ
200°19′-210°08′ Vĩ độ Bắc, 104048′ – 105040′ kinh độ đông, tiếp giáp với
phía Tây đồng bằng sông Hồng, Hòa Bình có địa hình núi trung bình, chia
cắt phức tạp, độ dốc lớn và theo hƣớng Tây Bắc – Đông Nam.
– Điện Biên là một tỉnh mới thành lập, tách ra từ tỉnh Lai Châu trƣớc
đây, cách thủ đô Hà Nội gần 500km về phía Tây, giáp với các tỉnh Lai Châu
và Sơn La.
– Lai Châu là một tỉnh biên giới thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, phía
Bắc tỉnh Lai Châu giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, phía Đông giáp tỉnh
Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Điện Biên.
– Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô,
mùa hè nóng ẩm, mƣa nhiều. Khí hậu Sơn La chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân,
hạ, thu, đông. Sơn La nóng ẩm vào mùa xuân, nắng nóng vào lúc giao mùa
giữa mùa xuân và mùa hạ, se se lạnh vào mùa thu và lạnh buốt vào mùa
đông.
– Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình đƣợc hình thành cách
nay 50-60 triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt
gẫy. Hơn vạn năm trƣớc, con ngƣời đã có mặt tại địa bàn tại đây.

Ngoài ra còn có tỉnh Yên Bái nằm ở hữu ngạn sông Hồng.

Về mặt lịch sử, tại vùng Tây Bắc, thời Pháp thuộc đã lập ra xứ Thái tự
trị. Năm 1955 Khu tự trị Thái-Mèo đƣợc thành lập, gồm 3 tỉnh Lai Châu,

7
Sơn La và Nghĩa Lộ, và đến năm 1962 gọi là Khu tự trị Tây Bắc. Khu tự trị
này giải thể năm 1975.
Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lƣợc trong an ninh-quốc phòng. Hiện
nay, vùng Tây Bắc do Quân khu 2 bảo vệ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây đã diễn ra nhiều trận
đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngoài ra còn có trận Nà Sản cũng trong thời kì Chiến tranh Đông Duơng
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi
tiếng với điệu múa xòe, tiêu biểu là điệu múa xòe hoa đƣợc rất nhiều ngƣời
biết đến. Thái là dân tộc có dân số lớn nhất vùng. Ngoài ra, còn khoảng 20
dân tộc khác nhƣ Mèo, Nùng… Ai đã từng qua Tây Bắc không thể quên
đƣợc hình ảnh những cô gái Thái với những bộ váy áo thật rực rỡ đặc trƣng
cho Tây Bắc.
Chiếm gần 1/3 diện tích cả nƣớc với trên 9,8 triệu dân, Tây Bắc là địa
bàn chiến lƣợc đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng.
Đây cũng là nơi có nhiều tiềm năng, lợi thế về, tài nguyên khoáng sản, du
lịch và kinh tế cửa khẩu.
1.2. Điều kiện dân cƣ – xã hội
Tây Bắc là vùng có trên 20 dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân tộc có
một phong tục tập quán riêng, một nét văn hóa riêng. Đây vừa là thuận lợi,
vừa là điểm khó khăn trong việc khai thác và phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của vùng.
Ở Tây Bắc, ngƣời Mƣờng chiếm 1,2 % dân số cả nƣớc. Ngƣời

8
Mƣờng tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình. Ngƣời Thái chiếm gần 1,3 %
dân số của cả nƣớc. Hiện nay ngƣời Thái cƣ trú trên một địa bàn rộng lớn
chủ yếu ở các huyện vùng trung du và thƣợng du Tây Bắc cho đến tận miền
Tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Ngoài ra, còn có ngƣời Mông định cƣ
và hoạt động sản xuất ở các sƣờn núi với độ cao trên 1.500m sát biên giới
phía Bắc, với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa, Dao (với các ngành Quấn
chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ), chiếm khoảng 0,7% dân số cả nƣớc. Ngƣời Dao,
cƣ trú ở độ cao 700 – 1000 m, tức là thấp hơn độ cao của ngƣời Mông ở lƣng
chừng núi, nơi nạn đốt rừng đang gây ra hiện tƣợng xói mòn với tốc độ đáng
lo ngại. Cùng sinh sống trên địa bàn này còn có các tộc ngƣời nhƣ Khơmú,
Laha, Xinhmun, Tày… Ngoài ra, còn có một bộ phận ngƣời Kinh vốn là con
cháu nghĩa binh Hoàng Công Chất đã sống lâu đời ở đây, và một bộ phận
ngƣời Hoa, vốn là dòng dõi quân Lƣu Vĩnh Phúc.
Tây Bắc là vùng đất có nền sản xuất nông nghiệp phong phú: chăn
nuôi bò sữa, trồng dâu nuôi tằm, ƣơm tơ dệt lụa, trồng cây ăn quả, chế biến
chè và các lâm sản khác. Nƣơng rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu.
Với nƣơng, đồng bào có lúa, rau quả nhƣ bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng,
kê, ớt… Bông và chàm cũng trồng trên nƣơng. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi
con ngƣời hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng
và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ
khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì
rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con ngƣời nƣơng tựa để tồn tại. Luật
Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc
biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.
Các dân tộc trong vùng đều có tín ngƣỡng “mọi vật có linh hồn”
(animisme), một loại tín ngƣỡng mà mọi dân tộc trên hành tinh đều trải qua.

9
Có đủ loại “hồn” và các loại thần sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực
lƣợng thiên nhiên nhƣ sấm, chớp, mƣa, gió. Các bộ phận trên thân thể con
ngƣời cũng có hồn. Ngƣời Kinh cho rằng có ba hồn bảy vía (nam) và ba hồn
chín vía (nữ). Ngƣời Thái có đến 80 hồn (Xam xếp khoăn mang nả. Hả xếp
khoăn mang lăng), nhƣ hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán…
Ngƣời chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên. Do chỗ mọi vật
đều có hồn, nên cần phải cƣ xử với chúng nhƣ trong quan hệ với ngƣời. Vậy
có hồn tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử của ngƣời
với chúng. Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền thì đây là cách chiếm lĩnh thiên
nhiên và thực tại của đồng bào, với hi vọng có thể nói chuyện”, có thể
“thƣơng lƣợng thậm chí khi cần thì cầu xin chúng. Bằng cách đó, đồng bào
thiết lập đƣợc mối quan hệ với mọi vật và với tổ tiên, đặt con ngƣời vào tổng
thể môi trƣờng không gian và thời gian, tạo nên một cân bằng trong tâm
thức. Con ngƣời hội tụ vào cuộc sống hiện hữu của mình các miền thời gian:
quá khứ, hiện tại, tƣơng lai; và các chiều không gian: thiên nhiên, môi
trƣờng, con ngƣời, xã hội. Đó chính là mối quan hệ đa diện, đa phƣơng đảm
bảo cho tính hợp lí và sự ổn định tất yếu của cuộc sống con ngƣời. Thiết
tƣởng, với trình độ khoa học kĩ thuật chƣa phát triển thì cách nhận thức thế
giới theo phƣơng pháp huyền thoại, tín ngƣỡng này không phải không có tác
dụng tích cực cho sự tồn tại của cộng đồng và con ngƣời nới miền núi rừng
Tây Bắc.
1.3. Tài nguyên du lịch
Đây là vùng giàu tài nguyên du lịch cả về tài nguyên tự nhiên và tài
nguyên nhân văn.
1.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên

10
Tây Bắc là một vùng đƣợc thiên nhiên ƣu đãi, với địa hình đa dạng,
nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp nổi tiếng bao gồm cả hang động và thác
ghềnh. Có thể kể tên một số công trình đã đƣợc kì quan thiên nhiên thiên
tạo nhƣ:
Động Đá Bạc – Hòa Bình
Động Đá Bạc thuộc xã Liên Sơn, huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Ðộng Ðá Bạc là tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hóa, là sự kết
hợp tinh tế giữa điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành tráng khỏe khắn với
sự duyên dáng thơ mộng.
Ðộng Ðá Bạc đƣợc phát hiện năm 1990 do sự tình cờ của ngƣời dân
đi lấy củi. Ban đầu cửa động là một khe nhỏ vừa một ngƣời chui vào, sau
dân địa phƣơng mở rộng cửa động để dễ bề đi lại. Với chiều dài gần 70m,
nhiều cung phòng nhỏ, động Ðá Bạc chứa đựng những giá trị tiềm tàng và
nhiều điều bí ẩn của thiên nhiên.
Suối nƣớc nóng Kim Bôi – Hòa Bình
Suối nƣớc khóang nóng Kim Bôi thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa
Bình. Đây là suối khoáng nóng tự nhiên rất tốt cho sức khỏe con ngƣời. Qua
kiểm nghiệm nguồn nƣớc khóang Kim Bôi có đủ tiêu chuẩn dùng làm nƣớc
uống, để tắm, ngâm mình có tác dụng chữa các bệnh viêm khớp, đƣờng ruột,
dạ dày, huyết áp. Đây cũng là một điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Hòa Bình.
Bản Lác Mai Châu – Hòa Bình
Bản Lác thuộc thung lũng Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Nơi đây từ lâu đã
nổi tiếng là một điểm du lịch cộng đồng đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái.
Tới thăm bản Lác, du khách sẽ đƣợc ở trong những ngôi nhà sàn cao ráo,

11
sạch sẽ, đặc trƣng của ngƣời Thái. Sàn nhà cách mặt đất khoảng 2m, đƣợc
dựng bằng những cột gỗ chắc chắn. Khách đến nhà xin mời múc nƣớc rửa
chân trƣớc khi bƣớc lên cầu thang. Sàn nhà bằng tre hoặc bƣơng. Mái nhà
lợp lá gồi hoặc lá mây. Các cửa sổ trong nhà có kích thƣớc khá lớn để đón
gió mát và cũng là nơi để chủ nhà treo các giò hoa phong lan, lồng chim
cảnh. Một khung dệt vải thổ cẩm đƣợc đặt cạnh một ô cửa sổ. Đây là bản
dân tộc ở tỉnh Hòa Bình còn giữ đƣợc nhiều nét phong tục tập quán cổ
truyền đặc sắc. Nơi đây đang đƣợc tỉnh Hòa Bình đầu tƣ phát triển để trở
thành một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Hang Tiên Sơn – Lai Châu
Hang Tiên Sơn thuộc xã Bình Lƣ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Trong hang có nhiều nhũ đá rủ xuống, nhiều măng đá “mọc” từ dƣới lên tạo
thành các hình thù kỳ lạ. Hang mới đƣợc phát hiện và khai thác nên còn khá
nguyên sơ. Chính vẻ đẹp nguyên sơ của hang đang thu hút đƣợc rất nhiều
khách du lịch.
Hang Dơi – Sơn La
Hang Dơi thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La có diện tích là 6.915
m2. Nơi đây dƣới sự tác động của thiên nhiên đã tạo ra những hang động lớn
với những cảnh đẹp mê hồn, cùng địa hình có độ dốc lớn của những dòng
suối chảy đã tạo ra những dòng thác kỳ thú khiến không ít du khách phải
trầm trồ thán phục. Nơi đây có rất nhiều dơi sinh sống, du khách đến đây có
thể ngắm nhìn nhiều tổ dơi xen lẫn trong các hốc đá, điều này đã tạo nên
điểm khác biệt hấp dẫn cho Hang Dơi.
Thác Dải Yếm – Sơn La

12
Khởi nguồn từ hai khe nƣớc Bó Co Lắm và Bo Tá Cháu ở đầu bản
Vặt – một bản của dân tộc Thái có lịch sử lâu đời nhất ở vùng đất này – nƣớc
từ nguồn trong núi chảy ra tạo thành suối Vặt khoảng 5 km thì hòa vào dòng
chảy của suối Bó Sập – một dòng suối lớn bắt nguồn từ bản Bó Sập giáp biên
giới Việt – Lào chảy về đất Yên Châu tạo thành thác nƣớc hùng vĩ. Thác
ngày đêm đổ xuống trắng xóa, ầm ào không chỉ mang đến cho du khách sự
thích thú trƣớc một khung cảnh vừa huyền bí vừa kỳ vĩ của đất trời mà còn
tạo nên cảm giác sảng khóai khi đƣợc hòa mình theo những ngọn gió mát
lành của thiên nhiên. Thác Dải Yếm đẹp nhất vào tháng 4 đến tháng 9 hàng
năm bởi đây là mùa nƣớc đủ, toàn bộ thác rộng 70m là một màn nƣớc trắng
xóa đổ xuống vừa mạnh mẽ vừa hùng vĩ tạo ra cảnh quan không kém phần
thơ mộng và lãng mạn.
Ngƣợc theo suối một đoạn, một lòng suối rộng với hàng ngàn viên đá,
tảng đá mang muôn hình vạn trạng khác nhau, nhìn rất lạ mắt hiện ra sẽ
khiến du khách thích thú. Chịu khó trèo lên đến đỉnh thác, khách sẽ gặp một
thảm thực vật phong phú và tuyệt đẹp tạo cho khung cảnh thiên nhiên nơi
đây càng thêm sinh động.
Hồ Pá Khoang – Điện Biên
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Mƣờng Phăng, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên gần 20km. Hồ Pá Khoang nằm
giữa một vùng thiên nhiên cảnh đẹp hùng vĩ, ẩn hiện trong mây trời non
nƣớc. Vào mùa đông sƣơng mờ buông phủ tạo thành một phong cảnh huyền
ảo, thấp thóang nơi xa là những dãy núi trập trùng, những nếp nhà xinh xắn.
Mùa hè không khí nơi đây thật dễ chịu với những luồng gió nam mát dịu.
Tất cả tạo nên một khung cảnh êm đềm, thơ mộng, một thắng cảnh quyến rũ

13
lòng ngƣời. Trong khu vực lòng hồ có các bản dân tộc Thái, Khơ Mú là
những dân tộc còn giữ đƣợc những phong tục tập quán, nét đặc sắc của các
dân tộc vùng Tây Bắc.
Hang Thẩm Báng – Điện Biên
Hang Thẩm Báng không chỉ là một hang đá đẹp mà tại đây, nhân dân
địa phƣơng đã phát hiện một số loại rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một
số mẩu xƣơng động vật hóa thạch.
Sa Pa – Lào Cai
Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, thị trấn Sa Pa ở độ cao 1.600 mét
so với mực nƣớc biển, cách thành phố Lào Cai 38 km và 376 km tính từ Hà
Nội. Sa Pa có khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, không khí mát
mẻ quanh năm. Thời tiết ở thị trấn một ngày có đủ bốn mùa: buổi sáng là tiết
trời mùa xuân, buổi trƣa tiết trời nhƣ vào hạ, thƣờng có nắng nhẹ, khí hậu
dịu mát, buổi chiều mây và sƣơng rơi xuống tạo cảm giác lành lạnh nhƣ trời
thu và ban đêm là cái rét của mùa đông.
Sa Pa là một vùng đất khiêm nhƣờng, lặng lẽ nhƣng ẩn chứa bao điều
kỳ diệu của cảnh sắc thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên của Sa Pa đƣợc kết
hợp với sức sáng tạo của con ngƣời cùng với địa hình của núi đồi, màu xanh
của rừng nhƣ bức tranh có sự sắp xếp theo một bố cục hài hòa tạo nên một
vùng có nhiều cảnh sắc thơ mộng hấp dẫn. Chìm trong làn mây bồng bềnh,
thị trấn Sa Pa nhƣ một thành phố trong sƣơng huyền ảo, vẽ lên một bức
tranh sơn thủy hữu tình.

Sa Pa có đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143m trên dãy Hoàng Liên Sơn.
Gọi là Hoàng Liên Sơn bởi duy nhất trên dãy núi này có cây Hoàng Liên,

14
một loại dƣợc liệu quý, hiếm. Ngoài ra dãy Hoàng Liên còn là “mỏ” của
nhiều loài gỗ quý nhƣ thông dầu, của bao chim thú nhƣ gà gô, gấu, khỉ, sơn
dƣơng và của hàng ngàn loại thuốc. Khu rừng quốc gia Hoàng Liên Sơn có
136 loài chim, có 56 loài thú, 553 loài côn trùng. Trong đó có 37 loài thú
đƣợc ghi trong “sách đỏ Việt Nam. Rừng Hoàng Liên Sơn có 864 loài thực
vật, trong đó có 173 loài cây thuốc.

Sa Pa có núi Hàm Rồng ở sát ngay thị trấn, bất kỳ du khách nào cũng
có thể lên đó để ngắm toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mƣờng Hoa, Sa Pả, Tả
Phìn ẩn hiện trong sƣơng khói. Hiện nay, với bàn tay tôn tạo của con ngƣời,
Hàm Rồng thực sự là một thắng cảnh đầy hoa trái của Sa Pa. Và, nếu ai đã
đến Thạch Lâm (Vân Nam, Trung Quốc) thì Hàm Rồng cũng có thể giúp các
bạn tƣởng tƣợng là Thạch Lâm đƣợc. Lên Hàm Rồng, du khách nhƣ lạc vào
vƣờn tiên, mây ùa kín thân ngƣời, hoa rực rỡ mặt đất.

Sa Pa còn có nhà thờ cổ ở ngay thị trấn và từ thị trấn đi ngƣợc về
hƣớng đông bắc trên đƣờng đi tới động Tả Phìn có một tu viện đƣợc xây gần
toàn nhƣ bằng đá tại một sƣờn đồi quang đãng, thóang mát. Qua tu viện đi
bộ ba cây số theo hƣớng bắc ta đến hang động Tả Phìn với độ rộng có thể đủ
chứa một số lƣợng ngƣời cỡ trung đoàn của quân đội. Trong hang nhiều nhũ
đá tạo nên những hình thù kỳ thú nhƣ hình tiên múa, đoàn tiên ngồi, cánh
đồng xa, rừng cây lấp lánh.
Đặc biệt, tại thung lũng Mƣờng Hoa có 196 hòn đá chạm khắc nhiều
hình kỳ lạ của những cƣ dân cổ xƣa cách đây hàng ngàn vạn năm mà nhiều
nhà khảo cổ học vẫn chƣa giải mã đƣợc. Khu chạm khắc cổ đã đƣợc xếp
hạng di tích quốc gia.
Từ thị trấn Sa Pa, đi về phía tây khoảng 12km trên đƣờng đi Lai Châu,

15
ta sẽ gặp Thác Bạc với những dòng nƣớc đổ ào ào từ độ cao trên 200m tạo
thành âm thanh núi rừng đầy ấn tƣợng.

Núi Cô Tiên – Bắc Hà – Lào Cai
Đến với núi Cô Tiên là đến với địa thế có tầm nhìn đẹp. Trên vách đá
phẳng, rộng, nhiều am nhỏ nhƣ đƣợc bàn tay các nghệ nhân đẽo gọt. Tƣợng
Phật Bà Quan Âm đƣợc đặt mặt quay về phƣơng Nam. Tham quan núi Cô
Tiên, du khách không những đƣợc thƣởng thức những nét đẹp văn hóa
truyền thống độc đáo của ngƣời vùng cao mà còn đƣợc ngắm nhìn cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú. Thị trấn nhƣ tràn ngập trong biển mây khi mùa hoa mận
nở, những phiên chợ náo nhiệt với đầy đủ sắc màu váy áo, dinh thự Hoàng A
Tƣởng trầm tĩnh uy nghi, những thảm lúa, nƣơng ngô, cánh rừng xanh
ngắt… tất cả đều chứng minh cho sự thịnh vƣợng của một vùng đất vùng
cao.
Động Mƣờng Vi – Bát Xát – Lào Cai
Đây là quần thể hang động lớn và đẹp chẳng khác nào ‘”tiên cảnh”,
đƣợc xếp hạng là danh thắng cấp quốc gia cần đƣợc giữ gìn. Với hệ thống
hang liên hoàn, quần thể hang động Mƣờng Vi nổi tiếng và đẹp nhất bởi 3
hang là Pạc Cám, Na Rin và Ná Rim. Trong đó, hang Pạc Cám là một động
khô, một số nhà khoa học cho rằng, hang có giá trị cao về khảo cổ học vì
nơi đây ẩn chứa nhiều dấu tích của ngƣời xƣa. Hang Na Rin và Ná Rim lại là
những động nƣớc kỳ ảo, đẹp lung linh với muôn vàn nhũ đá gắn liền với sự
tích thần tiên. Động Mƣờng Vi là một trong số ít danh thắng của Lào Cai
khiến du khách đã đến một lần thì không thể không khám phá thêm nhiều
lần nữa.
Trên đây là những thắng cảnh tiêu biểu của vùng. Bên cạnh đó còn rất

16
nhiều những điểm du lịch hấp dẫn khác mà không thể kể hết đƣợc đang chờ
đợi du khách khám phá, tìm hiểu và nghiên cứu.
1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Không gian Tây Bắc là không gian văn hóa của trên 20 tộc ngƣời
thiểu số cùng sinh sống, với những nét văn hóa đặc trƣng hấp dẫn, với nhiều
lễ hội, các loại hình nghệ thuật, các sản phẩm thủ công truyền thống, các đặc
sản ẩm thực…
1.3.2.1. Lễ hội
Vùng Tây Bắc có rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống nên cũng là nơi
tập trung rất nhiều lễ hội đặc sắc. Mỗi dân tộc ở mỗi địa phƣơng lại có
những lễ hội khác nhau. Lẽ hội là một phần không thể thiếu trong cuộc sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số. Dƣới đây chỉ xin đƣợc kể đến một số lễ
hội tiêu biểu của một số dân tộc tại một số địa phƣơng có khả năng phục vụ
phát triển du lịch.
Lễ hội xuống đồng Sa Pa – Lào Cai
Lễ hội xuống đồng đầu xuân của đồng bào dân tộc Tày, Dao xã Bản
Hồ – Sa Pa (Lào Cai) khai hội sáng ngày mồng 8 Tết luôn thu hút rất đông
nhân dân địa phƣơng và du khách thập phƣơng, có rất nhiều khách du lịch
nƣớc ngoài đã đến dự vui và khám phá nét văn hóa đặc sắc của đồng bào
vùng núi cao phía bắc.
Phần lễ đƣợc bắt đầu từ tục rƣớc đất, rƣớc nƣớc. Đoàn rƣớc bao giờ
cũng đi từ rất sớm khi trời còn chƣa rõ mặt ngƣời. Trong đoàn gồm có: thầy
cúng, đội trống, đội khèn, hai đôi nam nữ chƣa vợ chƣa chồng khiêng kiệu
rƣớc. Kiệu rƣớc đƣợc trang trí sặc sỡ nhiều mầu theo biểu tƣợng âm dƣơng

17
ngũ hành. Đi đầu đoàn rƣớc là thầy cúng, ngƣời đƣợc dân bản giao trách
nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh, trên tay thầy cầm cây nêu biểu
tƣợng của sự sinh sôi, nảy nở. Đi sau là kiệu rƣớc nƣớc, nƣớc đƣợc đựng
trong hai ống bƣơng to một ống bố và một ống mẹ. Tiếp đến là kiệu rƣớc
đất, đất thiêng đƣợc lấy từ trên núi cao gọi là đất mẹ. Sau đó là các mâm lễ
để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn (bên trong các quả
còn có đựng các hạt giống), mâm xôi 7 màu, bánh dày ngũ sắc và thủ lợn, gà
luộc, hoa quả… Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để
thầy cúng giao linh với thần linh.
Phần hội đƣợc bắt đầu bằng các điệu múa và các tiết mục văn nghệ
dân gian đặc sắc của ngƣời Tày, ngƣời Dao. Nổi bật nhất, vui nhất, nhiều
ngƣời tham gia nhất là những màn xòe, khi tiếng kèn trống vang lên các cô
gái Tày mở đầu màn xòe với những động tác xòe duyên dáng, điệu nghệ mời
mọi ngƣời tham gia, vòng xòe cứ rộng mãi đi đều trong tiếng kèn, tiếng
trống dập dìu.
Khi các màn xòe kết thúc mọi ngƣời lại đổ tới khu chơi trò chơi. Các
trò chơi ở đây đa số là trò chơi dân gian. Đầu tiên là trò chơi ném còn, hai
đôi nam thanh nữ tú đƣợc vinh dự ném quả còn đầu tiên, sau đó tất cả mọi
ngƣời đều đƣợc tham gia. Trò chơi ném còn đƣợc tiếp tục cho đến khi quả
còn đƣợc ai đó ném qua vòng. Tiếp theo là các trò chơi nhƣ đẩy gậy, kéo co,
đánh quay, đánh bóng, bịt mắt bắt dê, leo cột mỡ…
Có thể nói hội xuống đồng Bản Hồ – Sa Pa có ý nghĩa quan trọng
trong việc tiếp thêm sinh lực mới cho ngƣời dân trong sản xuất và xây dựng,
gìn giữ bản sắc văn hóa.
Lễ hội Đền Thƣợng – Lào Cai

18
Đây là lễ hội có quy mô lớn nhất trên địa bàn đƣợc tổ chức hàng năm
để tƣởng nhớ công ơn Đức Thánh Trần đánh đuổi giặc Nguyên, giữ yên bờ
cõi đất Việt. Nhiều năm qua, cứ đến rằm tháng Giêng hàng năm, trong
không khí đầu xuân, đồng bào các dân tộc ở Lào Cai nói riêng và nhân dân
cả nƣớc nói chung lại nô nức hành hƣơng về thành phố Lào Cai – nơi đất
thiêng ải bắc để hòa mình vào không khí sôi động của lễ hội đền Thƣợng.
Những năm gần đây, lễ hội đền Thƣợng đã dƣợc tỉnh Lào Cai tổ chức với
quy mô ngày càng lớn hơn và trình tự nghi thức trọng thể.
Phần lễ đƣợc cử hành trang nghiêm trong các đền chùa trên đồi Hỏa
Hiệu. Phần hội diễn ra tƣng bừng náo nhiệt với nhiều trò chơi dân gian đặc
sắc, vui nhộn nhƣ: múa rồng, lân, kéo co, ném còn, vật dân tộc, đẩy gậy, bắn
nỏ, chọi gà, đu, cờ ngƣời… Ngoài dịp lễ hội rằm tháng Giêng, những ngày
thƣờng, nhất là vào các ngày 15, 30, mồng 1 âm lịch hàng tháng …, đồng
bào các dân tộc ở Lào Cai và nhiều nơi khác vẫn về dâng hƣơng cầu phúc và
vãn cảnh đền Thƣợng. Đó cũng là một trong những nét đẹp văn hóa truyền
thống của tỉnh Lào Cai còn lƣu giữ và phát huy đến ngày nay.
Lễ hội Khai hạ của ngƣời Mƣờng Bi – Hòa Bình
Hàng năm cứ đến mùng 8 tháng Giêng, Lễ hội Khai hạ (Lễ xuống
đồng) của ngƣời Mƣờng Bi lại đƣợc tổ chức tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa
Bình. Lễ hội gồm hai phần, phần lễ bao gồm thủ tục thờ cúng, làm lễ thắp
hƣơng cầu lộc, cầu may. Phần hội diễn ra sau đó với các trò chơi dân gian
nhƣ ném còn, đánh mảng, đẩy gậy, bóng đá, bóng chuyền, bắn nỏ, giã gạo,
vật cổ truyền, múa cồng chiêng, múa sạp… Đây là sự kiện văn hóa có ý
nghĩa đối với cộng đồng dân tộc Mƣờng huyện Tân Lạc nói riêng và của tỉnh
Hòa Bình nói chung, lễ hội nhằm lƣu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa

19
Mƣờng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đền Đông Cuông – Yên Bái
Từ lâu, Đền Đông Cuông xã Đông Cuông, Yên Bái đã nổi tiếng là
ngôi đền linh thiêng, thờ Mẫu Thƣợng Ngàn, hàng năm thu hút đông đảo
nhân dân cả nƣớc đến dâng hƣơng, vãn cảnh đền và cầu nguyện cho mình
vcũng nhƣ ngƣời thân một năm gặp nhiều may mắn… Lễ hội đền Đông
Cuông còn là một trong những lễ hội chính của Chƣơng trình Du lịch về cội
nguồn hợp tác giữa 3 tỉnh Yên Bái – Phú Thọ – Lào Cai. Đền Đông Cuông đã
thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút nhân dân và du khách ở khắp
nơi đến thƣởng ngoạn và dâng hƣơng.
Lễ hội Hoa ban – Lai Châu
Hội Hoa ban, đƣợc tổ chức vào dịp tháng hai âm lịch hàng năm, khi
thời tiết bắt đầu nắng ấm. Sau mùa mƣa hoa ban bắt đầu nở trắng cả núi rừng
thì ngƣời Thái ở Tây Bắc bắt đầu đi trẩy Hội. Tại Hội này các bạn tâm giao
có dịp gặp nhau, hò hẹn, tâm tình. Chàng trai ngắt những bông hoa ban đầu
xuân đẹp nhất cài lên mái tóc của ngƣời mình yêu. Cô gái e ấp, thẹn thùng
nấp mình dƣới những lộc ban xanh mƣớt. Hội hoa ban mở ra không chỉ là
ngày hội của tình yêu và hạnh phúc, mà còn là dịp để ngƣời Thái cầu mùa,
cầu phúc, bày tỏ đạo hiếu đối với ông bà, cha mẹ. Tất cả đƣợc thể hiện thông
qua tiếng đàn, tiếng hát và lời nguyện cầu tha thiết.
Lễ hội Hạn Khuống – Lai Châu

Hạn Khuống là một sinh hoạt truyền thống văn hóa, vui tƣơi, lành
mạnh, giàu sáng tạo (lời hát, truyện kể) trong không khí ấm cúng và tao nhã.
Ngƣời Thái cùng một số dân tộc Tây Bắc thƣờng tổ chức hạn khuống sau vụ

20
thu hoạch vào khoảng giữa thu – đông. Nơi tổ chức trò vui trên là một
khoảng đất rộng thoáng ở bản, thanh niên nam nữ dựng sàn. Sàn cao khoảng
1,5 m (4.5 ft), có hàng rào bao quanh bằng phên mắt cáo, chỉ có một cửa ra
vào. Cuộc vui mở vào đêm bên bếp lữa sàn. Thanh niên nam nữ đến hát làm
quen, vui chơi ca hát và thi tài khéo léo. Nam nữ hát đối đáp với nhau cho
đến sáng họ mới chia tay nhau. Đêm hôm sau họ lại tiếp tục ca hát vui đùa
trò chuyện. Hạn Khuống do bên gái tổ chức thực ra là cuộc vui để tìm hiểu
bạn đời và sau đó là để chia tay về nhà chồng. Lễ hội Hạn Khuống Tây Bắc
đã để lại trong tâm khảm tuổi trẻ Tây Bắc ấn tƣợng đẹp về một thời trẻ trung
sôi nổi.
Lễ hội thành Bản Phủ – Điện Biên
Là lễ hội lớn, đƣợc tổ chức hàng năm để tƣởng nhớ công lao to lớn
của thủ lãnh Hoàng Công Chất cùng tƣớng Ngải, tƣớng Khanh và nghĩa
quân trong công cuộc giải phóng Mƣờng Then – Điện Biên khỏi sự chiếm
đóng của giặc Phẻ. Lễ hội đƣợc tổ chức vào các ngày 24, 25 tháng Hai âm
lịch hàng năm tại Bản Phủ với các phần lễ, ẩm thực dân tộc, múa, biểu diễn
các tiết mục của các dân tộc ở địa phƣơng.
Lễ hội Xên bản Mƣờng Sang – Sơn La
Đây là một trong những lễ hội độc đáo, điển hình của ngƣời Thái
trắng. Lễ hội tổ chức để cúng lễ tạ ơn những ngƣời có công lập bản, cầu các
vị thần linh cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt tƣơi, cuộc sống ấm no,
hạnh phúc…

Lễ Xên bản phải có áo của con trai thuộc dòng dõi quý tộc gốc hay
ngƣời đƣơng chức làm vật tế. Lễ vật do ngƣời dân toàn Mƣờng đóng góp, có
thể mổ từ hai đến bốn con trâu. Riêng ngƣời Thái ở Yên Châu, tỉnh Sơn La

21
thì tế trâu trắng. Điều lạ là, con trâu để Xên bản phải do chính mo Nghè đi
tìm, ông thích con nào thì chỉ con đấy, không cần biết con trâu đó của nhà ai.
Ngƣời ta bảo khi bị ông mo chỉ gậy vào, con trâu đứng yên đến mức gần nhƣ
bị thôi miên, ngƣời giúp việc cho ông chỉ việc dắt trâu về nơi tổ chức lễ hội.
Cỗ cúng thƣờng gồm ba mâm nhƣng phải đảm bảo có thịt trâu chín, gạo và
rƣợu. Ông mo khấn bảy lần, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ và phù hộ cho
dân Mƣờng đƣợc ấm no, sung túc, cuộc sống an vui.
Với nhiều hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Xên bản là một vốn
quý trong trong đời sống văn hóa, xã hội không chỉ với cộng đồng ngƣời
Thái trắng mà còn làm phong phú thêm đời sống văn hóa các dân tộc vùng
cao. Lễ hội này cũng nhƣ nhiều lễ hội đặc sắc của các dân tộc anh em khác ở
vùng cao đã và sẽ là nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch trong và ngoài
nƣớc.
Lễ hội lộc hoa của ngƣời Xinh Mun – Sơn La
Lễ hội Lộc hoa đƣợc tổ chức sau dịp Tết Nguyên Đán, lần lƣợt tổ
chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội
kéo dài, nhƣng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn, măng đắng đã mọc
cao, vì khi ấy mùa làm nƣơng (đầu tháng 4 dƣơng lịch) đã bắt đầu, để không
ảnh hƣởng đến sản xuất.
Tuy lễ hội tổ chức trong từng nhà, nhƣng lại là dịp hội tụ dân bản vì ai
cũng tự giác tham gia, ai làm trái lệ dễ bị chê cƣời, ghét bỏ, thậm chí có thể
bị loại ra khỏi cộng đồng.
1.3.2.2. Di tích lịch sử – văn hóa và khảo cổ
a. Di chỉ khảo cổ học

22
Một số di chỉ khảo cổ ở Lai Châu
Là mảnh đất có nhiều hang động, Lai Châu hiện lƣu giữ nhiều di tích
minh chứng cho nền văn minh của ngƣời Việt cổ. Hiện nay, các nhà khoa
học đã tìm thấy nhiều di tích khảo cổ tại hang Thẩm Púa (Búng Lao), Thẩm
Khƣơng (Chiềng Sinh) đều thuộc huyện Tuần Giáo; hay ở Nậm Phé, Nậm
Tun thuộc huyện Phong Thổ. Tại đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy công cụ
của thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá giữa, đồ đá mới. Ngoài ra còn tìm thấy ở đây
những công cụ bằng đồng thau của nền văn hóa Đông Sơn thuộc thời đại
Hùng Vƣơng nhƣ trống đồng Tuần Giáo (huyện Tuần Giáo), trống đồng
Mƣờng Thanh, Nà Ngƣm (huyện Điện Biên), trống đồng Chiềng Nƣa
(huyện Mƣờng Lay), trống đồng Mƣờng So (huyện Phong Thổ)… Hệ thống
các di chỉ khảo cổ ở Lai Châu đều có giá trị lịch sử văn hóa và nằm sâu dƣới
lòng đất vẫn còn những tầng văn hóa chƣa khai quật và nghiên cứu hoàn
chỉnh.
Bãi đá cổ Sa Pa – Lào Cai
Bãi đá cổ Sa Pa nằm trong thung lũng Mƣờng Hoa, xã Hầu Thào,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách thị trấn Sa Pa khoảng 8km về phía đông
nam. Đây là di sản của cƣ dân ngƣời Việt cổ, gồm những khối đá với các
hình chạm khắc từ xa xƣa, nằm rải rác trên những thửa ruộng bậc thang của
ngƣời dân bản Pho.
Bãi đá cổ Sa Pa đƣợc nhà khảo cổ ngƣời Pháp gốc Nga Glubev của
trƣờng Viễn Đông Bắc Cổ phát hiện vào năm 1925. Bãi đá trải rộng 8km²
với gần 200 khối đá có kích thƣớc, hình khắc khác nhau nhƣ: tranh vẽ tả
thực, hoa văn trang trí, hình ngƣời đang tỏa hào quang, hình ngƣời cách điệu
và một số mô tuýp khác về hình ngƣời, hình kiểu bản đồ mô tả thung lũng

23
Mƣờng Hoa… Đặc biệt, có các tảng đá đƣợc khắc trên đó những khối chữ
vuông giống với chữ Nôm Dao.
Các nhà khoa học giả thiết đó là hình bản đồ cổ của ngƣời Mông hoặc
gần nhƣ là cuốn sách cổ giới thiệu về những trận đánh ngày xƣa… Có rất
nhiều cách giải mã khác nhau của các nhà khoa học khi đến nghiên cứu Bãi
đá cổ Sa Pa. Tuy nhiên, tất cả những cách giải mã đó mới chỉ dừng lại ở giả
thiết. Bãi đá cổ Sa Pa vẫn nằm đó ẩn dấu những bí ẩn của ngƣời cổ xƣa,
thách thức các nhà khoa học. Từ tháng 10/1994, Bãi đá cổ Sa Pa đƣợc Bộ
VHTT công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hiện nay, di tích này
đang đƣợc nhà nƣớc đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Miền đất cổ Cao Răm – Hòa Bình
Nằm giữa những dãy núi đá vôi, Cao Răm là một thung lũng cổ, chỉ
rộng chừng 3km2, nhƣng nơi đây hiện đang có tới 4 trên tổng số 37 di tích
cấp Quốc gia.
Nơi đây, năm 1926 đã đƣợc nhà khảo cổ ngƣời Pháp M.Côlani chọn
là một trong những địa điểm đầu tiên khai quật để nghiên cứu về văn hóa
Hoà Bình.
Với hơn 1.000 hiện vật đã đƣợc khai quật và trƣng bày ở Bảo tàng
lịch sử Việt Nam, Viện khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng nhân chủng học,
Bảo tàng Hoà Bình, các nhà khoa học đã khẳng định hang Chổ là di tích
khảo cổ học quan trọng, có giá trị cao trong công tác nghiên cứu và thăm
quan về một nền văn hóa tiền sử nổi tiếng: Văn hóa Hoà Bình.
Nằm ở cuối dãy núi Sáng, động Mãn Nguyện đẹp làm ngỡ ngàng du
khách bốn phƣơng. Động nhƣ một tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của

24
tạo hóa, đƣợc kết hợp tinh tế giữa điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành
tráng của dãy núi Sáng cùng với nét duyên dáng của từng nhũ đá, măng đá,
cột đá, vân đá. Sự mềm mại của đá làm tất thảy những ai một lần đƣợc
chiêm ngƣỡng đều phải sửng sốt. Những màu sắc, hình dáng, vân đá… biến
đổi kì ảo theo từng thời gian, góc độ khác nhau luôn tạo cho du khách sự bối
rối, bất ngờ.
Điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình khám phá Cao Răm là
hang Khụ Thƣợng. Hang chia thành 3 động nhỏ, mỗi động lại có những vẻ
đẹp kỳ thú khác nhau.
Thung lũng Cao Răm mang trong mình đầy đủ những tiềm năng du
lịch quí giá để có thể phát triển thành vùng du lịch hấp dẫn du khách bốn
phƣơng.
b. Di tích lịch sử văn hóa
Dinh thự Hoàng A Tƣởng – Lào Cai
Dinh thự ngự ở trung tâm huyện lỵ Bắc Hà đƣợc khởi công năm 1914,
chủ nhân là Hoàng A Tƣởng – một thổ ty điển hình của giai cấp bóc lột thời
thuộc địa nửa phong kiến. Dinh thự do các kiến trúc sƣ ngƣời Pháp và Trung
Quốc thiết kế và trực tiếp giám sát thi công. Trải qua hơn 80 năm tồn tại
cùng thời gian, phủ bao lớp rêu phong cổ kính, ngôi biệt thự bề thế uy nghi
nổi trội giữa một khu phố xá dân cƣ đông đúc. Khu biệt thự này đã đƣợc
trùng tu tôn tạo để đón du khách tới tham quan, tìm hiểu về lịch sử xã hội
một thời đã qua.
Thành cổ Nghị Lang – Lào Cai

Thành nằm ở thung lũng Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *