ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
Vận dụng quan điểm toàn diện, đặc biệt là
quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay
ThànhPhốHồChí Minh – Ngàytháng 11 năm 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua 20 năm (1986 – 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng,
lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử
trọng đại. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh,
cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Đổi mới
làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến
nay đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, chính sách tiền tệ và
ngoại thương. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua
sản xuất đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987.
Xét riêng về kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đều được
khuyến khích phát triển không hạn chế; thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là
chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu, thứ ba, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá
đói giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm là 2 ưu tiên trọng tâm; thứ tư, cùng với đổi mới kinh tế đã
từng bước đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý quan điểm toàn diện, đặc
biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến – cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui định,
sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi
sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động
của các sự vật hiện tượng khác nhau (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm…) tự nhiên, dù muốn hay không,
cũng luôn luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tượng khác. Đó là tính khách quan của mối liên hệ.
Ngoài ra, mối liên hệ vốn có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự vật
hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. T rong thời đại ngày nàykhông có một quốc gia nào không có
quan hệ, liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham
gia tích cực vào các tổ chức như ASEAN, hay sắp tưói đây là WTO cũng không ngoài mục đích là quan
hệ, liên hệ, giao lưu với nhiều nước trên thế giới.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất
định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển rút ra
phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực. Đó chính là quan điểm toàn diện.
Vì bất cứ sự vật nào, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ rất đa dạng,
phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật hiện tượng ta phải xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó
với sự vật khác hay nói cách khác chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ
xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng.
2. Nội dung của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải chú ý
tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ
bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện không chỉ đòi hỏi chúng ta nắm bắt những cái hiện đạng tồn tại ở sự vật, mà
còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng
như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra
khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh, từ mối liên hệ của
nó với sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh từ mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người
có nhận thức sâu sắc, toàn diện về sự vật và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến diện về sự vật và
hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật chung của chúng để đề ra
những biện pháp kế hoạch có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả coa nhất cho hoạt
động của bản thân. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện xác định.
II. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới
Sau khi đất nước được giải phóng (năm 1976) và đất nước thống nhất năm (1976). Mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong
xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy
ý chí nên trong 5 năm đầu (1976 – 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế
hoạch là 13 – 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và ba không
đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 – 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn
thành còn ở mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 – 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương
thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 – 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá
biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát,
trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ
phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối
thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 – 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là
lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển, năng
suất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển
chậm, không tương xứng vưói sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không
đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên nogài ngày càng lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ
tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương thực phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 –
1980. Năm 1985 nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup – USD cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản
xuất ngày càng sâu.
Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định. Ngân sách Nhà nước
liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%, 1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm
1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời
sống nhân dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút.
Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
Trước tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xướng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi
mới.
2. Nội dung của đổi mới
Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản về vấn đề cải tạo XHCN và
đưa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình
đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN.
2.1.Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, gồm 3 cơ sở chính:
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn
tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ có thể thực hiện
bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những
không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong
từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển sự phát triển của phân công lao động được thể
hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt trong điều kiện
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vĩ mô nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu
đối với các hàng hoá đưa ra tra đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang
giá.
Mặt khác xây dựng kinh tế thị trường còn nhiều tác dụng to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
+ Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH mang nặng tính tự cung tự cấp, vì
vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá,
thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ mới để giảm chi phí nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế kích thích việc nâng
cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. Sự phát triển của kinh tế
chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng và lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của
đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
+ Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo
điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh
doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng vào nhu cầu phát
triển của đất nước.
Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế
cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công
lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm
năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
2.2. Giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
a. Thực hiện nhất quá chính sách kinh tế nhiều thành phần
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm mới về
nền kinh tế nhiều thành phần: “Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường
nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế khác” (1).
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và xuất phát từ thực trạng kinh tế
nền kinh tế Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuất kinh doanh theo qui mô thích hợp với
từng khâu của quá trình tái sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh
tế. Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước
Là thành phần nắm giữ một khối lượng lớn tài sản cố định và vốn lưu động, với gần 3 triệu lao
động tạo ra khoảng 35 – 40% tổng sản phẩm xã hội và đóng góp trên 50% ngân sách Nhà nước. T rong
nhiều ngành công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ 70 – 100% sản lượng. Tuy nhiên các
xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở kinh doanh yếu kém và không có hiệu quả thua
lỗ hoặc không có lãi. Vì vậy đổi mới các xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp Nhà nước) là
một trong những nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới và được thực hiện từng bước với các biện
pháp:
+ Từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với xoá bỏ chế độ Nhà
nước bao cấp tài chính, cung ứng và bao cấp giá vật tư và định giá đối với hầu hết các sản phẩm do
DNNN sản xuất và tiêu thụ. Chế độ quốc doanh cũng được bãi bỏ thay vào đó là chế độ thuế.
+ Sắp xếp lại DNNN theo hướng giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo
dài, sát nhập các doanh nghiệp có liên quan với nhau về công nghệ và thị trường. Tổ chức lại công ty và
các liên hiệp công nghiệp được thành lập trước đây thành lập các Tổng công ty mới, trong đó Nhà nước
bổ nhiệm Hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động của
Tổng công ty.
+ Chuyển sang các hình thức sở hữu khác, cổ phần hoá DNNN bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm
1992, đến năm 1996 mới có 10 doanh nghiệp đựơc cổ phần hoá.Từ năm 1998 đến năm đến nay Nhà nước
đã thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá, ngoài ra Nhà nước còn thực hiện
nhiều biện pháp chuyển đổi DNNN sang các hình thức sở hữu và kinh doanh khác như: giao, bán, khoán,
kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ.
+ Sắp xếp đổi mới phát triển DNNN vẫn được nghiên cứu và tiếp tục thực hiện theo hướng đa
dạng hoá sở hữu, hoàn thiện thể chế làm cho DNNN có quyền tự chủ và hiệu quả sản xuất kinh doanh
ngày một nâng cao. Năm 2003, chính phủ bắt đầu thực hiện chuyển đổi DNNN, kể cả các tổng công ty
theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Đổi mới kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác chủ yếu dưới các hình thức: Tổ hợp tái tập đoàn sản xuất, hợp tác xã được hình
thành trong quá trình cải tạo XHCN đối với những người sản xuất nhỏ cá thể trong nông nghiệp thủ công
nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Trong kinh tế hợp tác sở hữu tập thể kiểu chung chung, không phân
định rõ trách nhiệm thêm vào đó là những yếu kém trong quản lý, nên đã bộc lộ nhiều hạn chế đặc biệt
mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Nhiều hợp tác xã tồn tại trên hình thức.
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hợp tác chuyển theo các hướng sau:
+ Giải thể các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác xã làm ăn kém, thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại
trên hình thức.
+ Giao khoán hoặc nhượng bán tư liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp quản lý, sản xuất kinh
doanh theo hộ gia đình. Hợp tác xã chỉ làm một số khâu dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm cho xã
viên. Đối với các đất đai trong hợp tác xã nông, lâm nghiệp Nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu nhưng giao
cho các hộ gia đình nông dân quản lý, sử dụng với 5 quyền cơ bản: Thừa kế, cho thuê chuyển đổi, chuyển
nhượng và thế chấp (theo luật đất đai ban hành năm 1993).
+ Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo
luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).
Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp.
Trước khi đổi mới khu vực kinh tế tư nhân và cá thể vẫn còn tồn tại ở nước ta, chiếm tới 29,1%
trong tổng sản phẩm xã hội. Nhưng chủ trương của Nhà nước là hạn chế, cải tạo nên khu vực này từng
bước được khôi phục và phát triển theo chủ trương cải cách của Nhà nước.
Với chủ trương giao ruộng đất cho xã hội hợp tác xã nông nghiệp thì ở nông thôn, các hộ gia đình
đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ hoàn toàn. Sự tan rã của các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã đã
thúc đẩy sự phục hồi rất nhanh của kinh tế cá thể.
Hiến pháp năm 1992 qui định mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật không hạn chế
qui mô vốn là số lao động sử dụng. Sau đó hệ thống luật pháp tiếp tục được hoàn chỉnh và nhiều chính
sách mới được ban hành nhằm khuýến khích phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể.
Các hình thức sở hữu, kinh doanh hỗn hợp mới ra đời. Đặc biệt từ năm 1988, khi Nhà nước ban
hành Luật đầu tư nước ngoài thì các liên doanh với nước ngoài phát triển dưới nhiều dạng khác nhau, như
là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài… riêng năm 2000 đã có 1063 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2787 doanh nghiệp hỗn hợp.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá (CNH-HĐH) ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công
nghệ trên cơ sở đó phân công lao động xã hội.
Phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá vì vậy để phát triển kinh tế
hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội mà sự phân công lao động xã hội do sự phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội còn đẩy mạnh công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp
kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới được thiết lập, chưa
hoàn thiện vì vậy, quá trình công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế.
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện
cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiệnd đại phát triển rất nhanh chóng: những thuận lợi và
khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và thách thức, nền kinh tế của chúng ta đan xen
với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động, sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy
những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó
khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển bền vững.
Tác dụng của công nghiệp hoá.
Trước hết nó có tác dụng thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một
quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một
xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy
đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con
người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động năng suất lao động
làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Công nghiệp hoá là cơ sở để củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân
và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện
vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công
và hợp tác quốc tế.
Đặc điểm của công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, công nghiệp hoá – hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá sở dĩ như vậy là vì trên
thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiệnd dại hoá những ngành, những khâu,
những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá là
tất yếu với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước , mục tiêu và tính chất của công nghiệp
hoá có thể khác nhau ở nước ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, công nghiệp hoá trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều này
làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay có sự khác biệt, nó không xuất phát từ chủ quan của
Nhà nước mà nó đòihỏi phải vận dụng các qui luật khách quan mà trước hết là các qui luật thị trường.
Thứ tư, công nghiệp hoá trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta
biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ của quốc tế. Tuy nhiên nó cũng gây
không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, mà các nước tư bản phát triển thiết
lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá phải đảm bảo xây
dựng nước ta một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Những nội dung cơ bản của CNH – HĐH ở Việt Nam
Phát triển lực lượng sản xuất – cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện
cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá hợp lý và hiệu quả cao. Cơ cấu kinh tế được
gọi là hợp lý kho nó đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
+ Nông nghiệp phải giảm dần về tỉ trọng, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng về tỉ trọng
+ Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học
và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành các địa phương, các
thành phần kinh tế.
+ Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy cơ cấu
kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu.
Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là nội dung công nghiệp hoá ở nước ta, mà cụ thể hơn nội dung của công nghiệp hoá – hiện
đại hoá và hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt:
+ Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
+ Phát triển công nghiệp hoá chú trọng các ngành: nghề chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu công nghiệp điện tử và công nghiệp thông tin.
+ Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng, vật chất của nền
kinh tế.
+ Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ.
+ Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ
c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đại hội VI đã chỉ rõ:”Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài
hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại” (1). Thực hiện chủ trương đó,
Nhà nước đã ban hành chinhs ách “mở cửa” để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, từng bước gắn nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình
đẳng và cùng có lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.
Về ngoại thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng từng bước mở cửa và hội
nhập quốc tế.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, coi
xuất khẩu là một trong 3 chương trình trọng điểm của chặng đường đầu tiên, là hướng ưu tiên của kinh tế
đối ngoại trong suốt thời kỳ đổi mới. Các giải pháp cụ thể là:
+ Nhà nước xoá bỏ bao cấp bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các DNNN từ cuối
năm 1987 các doanh nghiệp này phải tự hạch toán kinh doanh sao cho có hiệu quả.
+ Nhà nước bỏ nguyên tắc độc quyền ngoại thương (từ năm 1990)
+ Điều chỉnh tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu. Từ năm 1991 chế độ 2 tổ quốc được xoá
bỏ, chuyển sang thực hiện tỷ giá linh hoạt có quản lý củ Nhà nước.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước nogài
Năm 1987, Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài, sau đó được bổ sung và sửa đổi nhiều lần
nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư.
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như đơn giản hoá thủ tục hành
chính, xây dựng các khu chế xuất, cơ sở hạ tâng thuận tiện.
Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế và thu hút đầu tư của nước
ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế.
d. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà
nước
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát
triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó, đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế
quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là: “Cơ chế kế hoạch hoá theo hướng phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”(1)
Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta từ năm 1986
đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng “xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN” (2). Điều đó thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống các công
cụ, chính sách quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
(1). Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VI, trang 46
(2) Đảng cộng sản Việt Nam, trang 98
3. Những thành tựu sau 20 năm đổi mới
3.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao
Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 cho đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng
trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt thời gian từ 1986-
1997.
Trong 5 năm đầu đổi mới (1986-1990), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các doanh nghiệp Nhà
nước và các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa phát triển nền kinh tế
rơi vào tình trạng bất ổn định, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng năm 1986 đạt 0,3%) và lạm phát cao
kéo dài. Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là
9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991-1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức
nhiều chỉ tiêu của kế hoạch này. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhận định: “Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ và chuẩn bị tiền đề cho công nghiêp hoá đã hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tất cả các mục tiêu kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm (1996-2000) và chiến lược kinh tế 10 năm
(1991-2000) đều đạt và vượt kế hoạch; GDP trong 10 này tăng bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ vậy
GDP năm 2000 đã gấp 2,07 lần năm 1990. Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trưởng châm hơn
trước (5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng với thiên tai xảy ra
trong nhiều vùng trên cả nước. Tuy nhiên đến năm 2000-2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đạt 6,7%;
68% và 70% đặc biệt năm2005 là 8,0% đưa tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 2001-2005 từ
7,5%.
Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một phần để tích
luỹ (năm 1991: 10,1%; 1995: 20%; năm 2000: 27% GDP). Dưới đây là thành tựu của một số ngành.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuoi nghề rừng và thủy sản. Thành tựu
nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương thực quốc gia. Sản lượng lương thực đã tăng nhanh:
từ 21,5 triệu tấn (năm 1990) lên 27,5 triệu tấn (năm 1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000) gần 36 triệu tấn
(năm 2002). Bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người nhờ đó
cũng tăng lên. Việt Nam đã từ một nước thiếu lương thực (trước năm 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo
thứ 2 thế giới sau Thái Lan).
Những chuyển biến trên mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống
nhân dân.
Các vùng cây ăn quả tập trung cũng được hình thành, nhiều mặt hàng nông sản đã chiếm được vị
trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Trong 10 năm 1991-2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng
7,6%; cao su tăng 12,4%; cà phê tăng 17,7%; rau quả tăng 10,8%; hạt tiêu tăng 24,8%; hạt điều tăng
37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Một nền
nông nghiệp hàng hoá đã hình thành gắn với thị trường quốc tế.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991-1995
tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 tăng 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp
nhưu điện, than, vải, thép, xi măng… tăng nhanh trong những năm đổi mới và đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất, đời sống nhân dân và xuất khẩu.
Thời kỳ này đã hoàn thành một số công trình lớn: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Yaly, đường dây
500 KV Bắc – Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ… Sản lượng điện đã tăng từ 5,7 tỷ KWh năm 1986 lên
26,6 tỷ KWh năm 2000. Nhờ đó điện lưới quốc gia đã phủ tới 98% số huyện 70% số xã, 90% số hộ thành
thị, 60% số hộ nông dân.
Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp đang vươn tới mọi miền
của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Hoạt động thương mại có nhiều khởi sắc, cơ chế cung cấp theo
tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ thay thế vào đó là tự do lưu thông, thống nhất một giá. Thị
trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận
tiện.
3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỉ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của
khu vực II (gồm công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực II (các ngành dịch vụ đã tăng lên).
Cơ cấu các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế trong GDP đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã
sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ đạo kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường.
Doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại để hoạt động có hiệu quả hơn: số doanh nghiệp đã giảm
từ hơn 1200 (đầu 1990) xuống còn gần 6000 doanh nghiệp vào cuối năm 1990, tuy vậy tỉ trọng kinh tế
Nhà nước vẫn tăng lên từ 29,4% năm 1990 lên 39% năm 2000. Doanh nghiệp Nhà nước từng bước được
đổi mới và phát triển.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh.
+ Kinh tế hợp tác: từ năm 1988 đến 1994, cả nước đã giải thể 2998 hợp tác xã yếu kém và 33804
tập đoàn sản xuất. Tính đến năm 1997 cả nước có 13000 hợp tác xã nông nghiệp, 38000 tổ hợp tác. Nhiều
hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang mô hình kiểu mới.
+ Kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình thức khác nhau đã tăng lên nhanh chóng: từ 132 doanh
nghiệp năm 1991 tăng lên 42393 doanh nghiệp vào cuối năm 1999. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành
luật doanh nghiệp 1/1/2000, thì khu vực kinh tế tư nhân tăng lên rất nhanh.
+ Kinh tế cá thể và tiểu chủ cũng rất phổ biến, tính đến năm 1995 có gần 2 triệu hộ kinh doanh
trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ và hơn 3 triệu hộ gia đình nông dân cá thể.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc tận dụng
nguồn vốn và lao động, tự tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế. T uy nhiên khu vực này vẫn còn đang có trạng thái phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng của nó.
3.3. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát
Trong những năm 1986-1988 lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Từ năm
1989, lạm phát được chậm lại ở mức 2 con số sau đó giảm xuống 1 con số. Năm 1986: 774,7%; năm
1990: 67,4%; năm 1995: 12,7%; năm 1997: 3,7%; năm 1999: 0,1%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh
tế khá cao.
3.4. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh
Quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta ngày càng được mở rộng. Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận,
ngày 11/7/1995, Mỹ tuyên bố bình thường hoá uan hệ và ngày 12/7/1994 đã thiết lập quan hệ kinh tế với
Việt Nam. Và từ đó đến nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với 150 nước và vùng lãnh thổ vào
năm 2000.
Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc. Năm 2001, Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu
15,027 tỷ USD, nhập khẩu là 16,162 tỷ USD so với 822,9 triệu USD và gần 221,6 tỷ USD năm 1986.
Kim ngạch XNK tăng bình quân hàng năm trên 20%. Sở dĩ kim ngạch XNK tăng nhanh như vậy là do
nước ta thực hiện chính sách mở cửa, có những cơ chế xuất nhập khẩu đổi mới và có chính sách tỷ giá hối
đoái linh hoạt.
Nhập siêu giảm 3,8 tỷ USD năm 1996 còn 900 triệu USD năm 2000 và 1,135 tỷ USD. Ta đã có
một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, than đá, gạo, dệt may, giày dép, thuỷ sản, cao su, cà phê
với số lượng lớn và chất lượng ngày càng tăng. Sản xuất hướng về xuất khẩu là một nét mới gắn với
đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế Việt Nam, làm cho các ngnàh sản xuất thoát ra khỏi tình trạng tự
cấp tự túc, tăng dần tích luỹ.
3.5. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần đã được
cải thiện một bước rõ rệt. Số lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng nhanh, trong những
năm 1995-2000 trung bình đã tạo ra 1,3 triệu việc làm mới. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10%
trong 16 năm đổi mới. GDP bình quân đầu người đạt gần 400USD/năm (năm 2000) và đến năm 2005 là
gần 650USD/năm. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm xuống từ 55% (năm
1989) xuống còn 11,4% năm 2000.
Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân cũng được tăng lên đáng kể. Số
người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân đã tăng 0,464 năm 1992 lên 0,761 năm 2000, xếp thứ 108
trong số 174 nước được xếphạng, tăng 2 bậc so với năm 1999.
KẾT LUẬN
Những thành tựu sau 20 năm đổi mới đã phần nào cho thấy đường lối của Đảng và Nhà nước ta
hoàn toàn đúng đắn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào
Đảng. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế.
– Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bị xoá bỏ, tuy nhiên cơ chế mới vẫn chưa hoàn toàn ưu
việt, vẫn có sự quan liêu và đặc biệt là nạn tham nhũng xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Nó gây ảnh
hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước. Vì thế trong giai đoạn mới, chúng ta cần phải cải tổ mạnh mẽ
hơn nữa trong cơ chế quản lý.
– Giai đoạn tới là giai đoạn của nền kinh tế tri thức, tuy nhiên đội ngũ cán bộ của chúng ta còn
nhiều yếu kém, nhiều người có trình độ không cao nhưng lại giữ những chức vụ quan trọng, vì vậy khi
tiếp cận nền kinh tế tri thức sẽ gây ra rất nhiều khó khăn. Công tác đào tạo đội ngũ tri thức trẻ có năng lực
cao là điều rất quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở nước ta.
Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến công tác này.