BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ – TIN HỌC TP. HỒ CHÍ MINH
—-—-
NGUYỄN THỊ KIM THOA
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ DỊCH VỤ
ĐẾN SỰ HÀI LÒNG VÀ BẤT MÃN CỦA DU KHÁCH
TẠI ĐIỂM ĐẾN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60.34.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VÕ THỊ NGỌC THÚY
Thành phố Hồ Chí Minh – Tháng 7, năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn cao học, bên cạnh sự kiên trì, nỗ lực của bản thân
còn có sự quan tâm, hướng dẫn, chia sẻ của Nhà trường, Quý Thầy Cô, lãnh đạo
đơn vị nơi công tác, các anh chị em đồng nghiệp, bạn bè và đặc biệt là gia đình.
Tôi chân thành cảm ơn Nhà trường, Quý Thầy Cô trường Đại học Ngoại ngữ
Tin học thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng chương trình đào tạo thiết thực, truyền
đạt những thông tin hữu ích về nhiều khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực quản trị
kinh doanh. Những kiến thức được Quý Thầy Cô truyền đạt có ý nghĩa quan trọng
trong việc thay đổi tư duy, định hướng cho học viên, không chỉ ứng dụng trong
công tác chuyên môn mà còn tác động tích cực đến cuộc sống.
Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thị Ngọc Thúy, giảng viên
trường Đại học Kinh tế Luật thành phố Hồ Chí Minh đã dành thời gian định hướng
đề tài, tận tâm hướng dẫn và truyền đạt kiến thức, cung cấp các thông tin hữu ích,
quan trọng đến đề tài nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu luận văn được học viên đầu
tư nghiêm túc, tổng hợp những kiến thức đã được học về phương pháp nghiên cứu
khoa học, về các nghiên cứu thực tiễn đã thực hiện trong lĩnh vực quản trị kinh
doanh. Việc tổng hợp, nghiên cứu, phân tích từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau giúp
học viên nâng cao khả năng tư duy, có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn tri thức và ứng
dụng thực tiễn.
Một lần, trân trọng cảm ơn Nhà trường và Quý Thầy Cô đã tận tâm chia sẻ
nguồn tri thức trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn, cho học viên
Cao học khóa 2 Khoa Quản trị kinh doanh nói chung và bản thân tôi nói riêng.
Trân trọng cảm ơn.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn “Sự tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài
lòng và bất mãn của du khách đối với điểm đến thành phố Hồ Chí Minh” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Cơ sở lý luận tham khảo từ các tài liệu trong và ngoài nước đều được nêu
ở phần tham khảo, số liệu và kết quả trong luận văn là số liệu khảo sát thực tế,
không sao chép của bất cứ công trình nào trước đây.
Nguyễn Thị Kim Thoa
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AMA
America Marketing Association
Hiệp hội marketing Mỹ
ASEAN
Association of
Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á
DDI
Dissatisfaction Decrement Index
Chỉ số kéo giảm sự bất mãn
EFA
Exploratory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khám phá
IPA
Important-Performance Analysis
Phân tích mức độ quan trọng,
mức độ thể hiện
GRDP
Gross Regional Domestic Product
Tổng sản phẩm trên địa bàn
HOLSAT
Holiday Satisfaction
Sự hài lòng về kỳ nghỉ
MICE
Meeting Incentive Conference
Event
Du lịch kết hợp hội nghị, hội
thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện
SII
Satisfaction Increment Index
Chỉ số gia tăng sự hài lòng
SM
Simulation Method
Phương pháp thực nghiệm dựa
vào bảng chéo
SPSS
Statistical Package for the Social
Sciences
Gói phần mềm phân tích thống kê
trong khoa học xã hội
UNWTO
World Tourism Organization
Tổ chức du lịch thế giới
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 Mô hình SERVQUAL của Parasuraman và cộng sự (1988) ……………….
17
Hình 2.2 Hai cách tiếp cận hai khái niệm sự hài lòng và bất mãn
……………………..
19
Hình 2.3 Mô hình Kano của Kano và cộng sự (1984) …………………………………….
23
Hình 2.4 Số lượng khách và tổng thu du lịch năm 2014 đến 2017…………………….
33
Hình 2.5 Số lượng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành năm 2014 đến 2017 …………
34
Hình 2.6 Số lượng lao động trực tiếp trong ngành du lịch năm 2014 đến 2017 …..
35
Hình 2.7 Mô hình nghiên cứu đề xuất
………………………………………………………….
37
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu …………………………………………………………………..
40
Hình 4.1 Ma trận phân loại các nhóm yếu tố dịch vụ theo chỉ số SII và DDI ……..
56
Hình 4.2 Chỉ số gia tăng sự hài lòng và giảm sự bất mãn của nhóm hấp dẫn
………
57
Hình 4.3 Chỉ số gia tăng sự hài lòng và giảm sự bất mãn của nhóm một chiều …..
58
Hình 4.4 Chỉ số gia tăng sự hài lòng và giảm sự bất mãn của nhóm phải có ………
59
Hình 4.5 Chỉ số gia tăng sự hài lòng và giảm sự bất mãn của nhóm trung lập
…….
59
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tóm tắt các nghiên cứu tiêu biểu về phân nhóm các yếu tố dịch vụ …….
25
Bảng 2.2 Các yếu tố dịch vụ trong ngành du lịch đã nghiên cứu ………………………
28
Bảng 3.1 Phương pháp phân nhóm của Kano (1984) ……………………………………..
43
Bảng 4.1 Các yếu tố dịch vụ tại điểm đến thành phố Hồ Chí Minh …………………..
46
Bảng 4.2 Mô tả các đặc điểm mẫu khảo sát ………………………………………………….
49
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định thang đo với chỉ số Cronbach´s Alpha (1951) ……….
51
Bảng 4.4 Kết quả phân bổ các yếu tố dịch vụ tại điểm đến thành phố Hồ Chí Minh
.
52
Bảng 4.5 Mức độ tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng và bất mãn
…..
54
Bảng 4.6 Phân loại các yếu tố dịch vụ theo nhóm theo phương pháp Kano
………..
60
Bảng 4.7 Xếp loại mức độ tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng/bất mãn
.
62
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
……………………………………………
1
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu …………………………………………………….
1
1.2. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………
2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………………………….
3
1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu………………………………………………………
3
1.5. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………
4
1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài …………………………………………………………..
4
1.7. Cấu trúc của luận văn …………………………………………………………………..
5
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
………….
7
2.1. Tổng quan các khái niệm ………………………………………………………………
7
2.1.1. Dịch vụ, chất lượng dịch vụ
………………………………………………….
7
2.1.2. Sự hài lòng của khách hàng ………………………………………………..
10
2.1.3. Sự bất mãn của khách hàng ………………………………………………..
12
2.1.4. Khách du lịch …………………………………………………………………..
12
2.1.5. Điểm đến du lịch ………………………………………………………………
13
2.2. Mối quan hệ giữa các khái niệm và các lý thuyết liên quan
……………….
15
2.2.1. Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng …………………
15
2.2.2. Sự hài lòng và bất mãn của khách hàng ………………………………..
19
2.2.3. Mô hình Kano của Kano và cộng sự (1984)
…………………………..
22
2.3. Các nghiên cứu có liên quan ………………………………………………………..
24
2.3.1. Các nghiên cứu ứng dụng mô hình Kano ………………………………
24
2.3.2. Các yếu tố dịch vụ trong ngành du lịch
…………………………………
27
2.4. Thực trạng ngành du lịch tại thành phố Hồ Chí Minh ………………………
32
2.5. Mô hình nghiên cứu đề xuất ………………………………………………………..
37
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
……………………………………..
39
3.1. Thiết kế nghiên cứu ……………………………………………………………………
39
3.2. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………….
41
3.2.1. Nghiên cứu định tính …………………………………………………………
41
3.2.2. Nghiên cứu định lượng
………………………………………………………
42
CHƯƠNG 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
……………………………………………….
45
4.1. Kết quả nghiên cứu định tính ……………………………………………………….
45
4.2. Kết quả nghiên cứu định lượng
…………………………………………………….
48
4.2.1. Kiểm định độ tin cậy thang đo với chỉ số Cronbach´s Alpha…….
50
4.2.2. Kết quả phân nhóm các yếu tố dịch vụ …………………………………
51
4.2.3. Kết quả kiểm định giả thuyết
………………………………………………
60
CHƯƠNG 5:
HÀM Ý VÀ ĐỀ XUẤT
…………………………………………………….
67
5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu………………………………………………………….
67
5.2. Hàm ý quản trị
…………………………………………………………………………..
68
5.3. Hạn chế của đề tài………………………………………………………………………
70
5.4. Hướng nghiên cứu tiếp theo
…………………………………………………………
71
5.5. Kết luận
……………………………………………………………………………………
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………
73
PHỤ LỤC
……………………………………………………………………………………………….
77
1
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Du lịch là hoạt động mang lại giá trị tinh thần và vật chất cho cộng đồng,
xã hội. Thông qua du lịch, du khách được thỏa mãn các nhu cầu giải trí như kỳ
vọng và qua đó các điểm đến du lịch cũng đạt mục tiêu quảng bá văn hóa, đem lại
hiệu quả kinh tế, v.v. Vai trò của du lịch ngày càng chiếm ưu thế trong việc phát
triển kinh tế, do đó việc đầu tư cho lĩnh vực này ngày càng được chú trọng. Để đạt
được mục tiêu đề ra, các nhà quản trị phải không ngừng sáng tạo, tìm kiếm các
giải pháp tối ưu nhằm phát triển du lịch. Hoạt động du lịch sôi nổi đã góp phần tạo
nên môi trường kinh tế năng động, làm tiền đề cho sự phát triển đa ngành. Vì vậy
việc nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng trở nên thiết thực,
quan trọng hơn bao giờ hết.
1.1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, du lịch trở thành ngành
công nghiệp không khói, phát huy ưu thế của địa phương và góp phần phát triển
kinh tế, văn hóa và xã hội. Du lịch phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của nhiều
ngành kinh tế khác. Với tầm quan trọng đó, các đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ du lịch được quan tâm và khai thác triệt để. Các nghiên cứu
được thực hiện trên cơ sở phân tích, đánh giá mức độ tác động của những yếu tố
dịch vụ đến sự hài lòng của du khách.
Các nghiên cứu đánh giá mức độ hài lòng trong ngành du lịch Việt Nam
sử dụng chủ yếu 4 mô hình như mô hình IPA trong nghiên cứu của Bùi Văn Trịnh
và Nguyễn Văn Đậm (2015), mô hình SERVQUAL trong nghiên cứu của Hoàng
Trọng Tuân (2015), mô hình HOLSAT trong nghiên cứu của Phạm Thị Mai Yến
và Phạm Thị Minh Khuyên (2017), mô hình SERVPERF trong nghiên cứu của
Nguyễn Thị Trang Nhung, Đỗ Mỹ Hạnh và Nguyễn Quốc Oánh (2015). Trong đó,
mô hình SERVQUAL với thang đo 5 nhóm yếu tố được sử dụng rất phổ biến.
2
Hầu hết kết quả các nghiên cứu đều cho thấy có mối liên hệ giữa các yếu
tố dịch vụ tác động đến sự hài lòng của du khách. Từ đó đưa ra được các giải pháp
góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ trong ngành du lịch. Tuy nhiên
việc rập khuôn sử dụng các mô hình, nhất là mô hình SERVQUAL trong nhiều
nghiên cứu đã phần nào tạo sự nhàm chán và chưa đem lại sự mới mẻ về hướng
tiếp cận nhằm gia tăng sự hài lòng của khách hàng trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng
được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ
riêng lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên việc phân loại và xếp loại mức độ tác động của
các yếu tố dịch vụ vẫn còn hạn chế, mà điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với các
nhà quản trị, giúp họ xác định những vấn đề cần tập trung. Trên thực tế, trong từng
nhóm yếu tố dịch vụ sẽ có những yếu tố cần tập trung đầu tư, có những yếu tố đầu
tư ở mức độ vừa phải và có những yếu tố nếu không đầu tư cũng không ảnh hưởng
đến sự hài lòng của khách hàng.
1.2.
Lý do chọn đề tài
Dựa vào tổng quan nghiên cứu kết hợp tham khảo các tài liệu nước ngoài
và một số ít tài liệu trong nước, đã gợi mở hướng tiếp cận khác trong việc đánh giá
sự tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng của khách hàng; đó là việc ứng
dụng mô hình Kano của Giáo sư Noriaki Kano và cộng sự (1984). Mô hình Kano
và các nghiên cứu ứng dụng mô hình Kano đã phân nhóm và xác định mức độ tác
động của các yếu tố sản phẩm/dịch vụ dẫn đến sự hài lòng hay bất mãn ở khách
hàng. Việc ứng dụng mô hình Kano vào nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ tác
động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng hay bất mãn của khách du lịch vừa
góp phần làm sáng tỏ, phong phú về lý thuyết vừa đem lại giá trị về mặt thực tiễn.
Về tiềm năng phát triển du lịch, thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá
là một trong số các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đang từng bước khẳng định
vị thế và không ngừng sáng tạo, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa, đẩy
mạnh việc khai thác các giá trị vật chất và tinh thần, phục vụ cho nhu cầu ngày
càng cao của người dân và du khách thông qua ngành du lịch.
3
Mặt khác, thành phố vẫn còn một số hạn chế nhất định như hệ thống cơ
sở hạ tầng chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu phục vụ và phát triển du lịch; tình trạng
ô nhiễm môi trường cũng gây ảnh hưởng đáng kể. Năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch chưa cải thiện nhiều so với các thành phố lớn
của các quốc gia trong khu vực. Sản phẩm du lịch vẫn còn đơn điệu, chưa phong
phú và thiếu sự kết nối để tạo thành một chuỗi các hoạt động thu hút khách du lịch
đến trải nghiệm, kéo dài thời gian lưu trú và tăng sức cạnh tranh trong khu vực.
Vì vậy, bên cạnh những ưu thế vượt bậc của một thành phố trẻ, năng
động cần được tiếp tục phát huy thì vẫn tồn tại những vấn đề cần cân nhắc, khắc
phục kịp thời để thành phố Hồ Chí Minh thật sự là điểm đến lý tưởng của du
khách trong và ngoài nước. Đây là mối quan tâm không chỉ đối với chính quyền,
các nhà nghiên cứu mà còn là vấn đề thiết yếu đối với các nhà quản trị kinh doanh
trong việc tìm ra các giải pháp kinh tế hiệu quả nhằm phát triển du lịch. Trên cơ sở
đó, đề tài nghiên cứu được lựa chọn: “Sự tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự
hài lòng và bất mãn của du khách đối với điểm đến thành phố Hồ Chí Minh”.
1.3.
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên ba mục tiêu chính:
Một, nhận dạng các yếu tố dịch vụ tác động đến sự hài lòng và bất mãn
của du khách đối với điểm đến thành phố Hồ Chí Minh.
Hai, phân loại và xếp loại mức độ tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự
hài lòng và bất mãn của du khách.
Ba, đưa ra hàm ý và đề xuất để nhà quản trị hiểu rõ mức độ đầu tư khác
nhau vào các yếu tố dịch vụ trong lĩnh vực du lịch.
1.4.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài
lòng và bất mãn của du khách. Phạm vi nghiên cứu là các điểm đến du lịch tham
quan, giải trí, mua sắm và lưu trú tại thành phố Hồ Chí Minh với số liệu nghiên
cứu từ năm 2014 đến năm 2017. Và đối tượng khảo sát là khách du lịch nội địa.
4
1.5.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo ba bước như sau:
Một, tổng quan các khái niệm, mô hình lý thuyết, mối tương quan giữa
các khái niệm và ứng dụng mô hình thực nghiệm sau đó điều chỉnh theo nghiên
cứu thực tế.
Hai, tiến hành nghiên cứu sơ bộ phỏng vấn sâu, tham khảo ý kiến chuyên
gia để hiệu chỉnh thang đo.
Ba, thực hiện nghiên cứu chính thức thông qua việc sử dụng phương
pháp nghiên cứu định lượng để kiểm định giả thuyết, phân tích kết quả nghiên
cứu, để từ đó đưa ra hàm ý quản trị hữu dụng.
1.6.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Dựa vào những nghiên cứu thực nghiệm và bối cảnh thực tế hiện nay,
chúng ta cần phải xác định những yếu tố dịch vụ nào tác động đến sự hài lòng và
bất mãn của du khách khi chọn thành phố Hồ Chí Minh là điểm đến. Và từng yếu
tố dịch vụ sẽ có mức độ tác động khác nhau, có yếu tố sẽ tác động mạnh, có yếu tố
tác động không mạnh và cũng có những yếu tố gây sự bất ngờ, hấp dẫn đối với du
khách. Giải quyết được những vấn đề nêu trên của đề tài sẽ làm sáng tỏ nhiều khía
cạnh về lý thuyết và thực tiễn. Đồng thời đưa ra những hàm ý quản trị giúp các
nhà quản lý, các doanh nghiệp lựa chọn những giải pháp nhằm tối ưu hóa chi phí
nhưng vẫn đảm bảo khai thác điểm mạnh tạo lợi thế cạnh tranh.
Về mặt lý thuyết, kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ các khái niệm, lý
thuyết nền tảng, ứng dụng của các mô hình nghiên cứu thực nghiệm, mức độ
tương quan giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng trong bối cảnh
thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, được cụ thể hóa trong lĩnh vực du lịch. Làm
rõ hơn vấn đề về sự tác động khác nhau giữa các yếu tố trong từng nhóm yếu tố
dịch vụ đã được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau ở nước ngoài. Nhưng
đây vẫn còn là mô hình ứng dụng mới mẻ tại Việt Nam.
5
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu này giúp các nhà quản trị xác định được
những vấn đề cần quan tâm, chú trọng để từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn,
phù hợp dựa vào tiềm lực sẵn có. Đối với chính quyền, đây là việc xác định mức
độ cần đầu tư, phát triển vĩ mô, tạo cơ chế thông thoáng, hợp lý cho các doanh
nghiệp, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực du lịch hoạt động. Đối với các hộ kinh
doanh, các doanh nghiệp, công ty lữ hành sẽ hiểu thấu đáo nhu cầu và mong muốn
của du khách khi chọn điểm đến thành phố Hồ Chí Minh, để từ đó đưa ra các biện
pháp khắc phục và phát huy đúng hướng, đúng nội dung, thời điểm nhằm phát
triển du lịch hiệu quả.
1.7.
Cấu trúc của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm 5 chương gồm: Tổng quan nghiên cứu; Cơ sở
lý thuyết và mô hình nghiên cứu; Phương pháp nghiên cứu; Kết quả nghiên cứu;
Hàm ý và đề xuất.
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu. Chương này nêu lý do chọn đề tài,
mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa của đề tài và
giới thiệu kết cấu luận văn.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu. Đây là phần tổng
quan các khái niệm, mối tương quan giữa các khái niệm, các mô hình lý thuyết,
mô hình thực nghiệm và đề xuất mô hình nghiên cứu dựa trên thực tiễn.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương 3 trình bày về mục tiêu
nghiên cứu, cách tiếp cận và các giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết và khung
phân tích, giới thiệu tổng quan về thiết kế nghiên cứu, đơn vị nghiên cứu, công cụ
và quy trình thu thập thông tin, cách xử lý và phân tích dữ liệu nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Chương trình bày đặc điểm của mẫu,
phương pháp thu thập dữ liệu và tỉ lệ hồi đáp, kiểm định và đánh giá thang đo,
kiểm định mô hình và các giả thuyết.
Chương 5: Hàm ý và đề xuất. Chương 5 tóm tắt kết quả, đưa ra hàm ý
quản trị, trình bày hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.
6
Tóm tắt chương 1
Trên đây là phần tổng quan nghiên cứu của đề tài “Sự tác động của các
yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng và bất mãn của du khách đối với điểm đến thành
phố Hồ Chí Minh”. Mục tiêu của chương nêu tổng quan các vấn đề về tình hình
nghiên cứu, lý do chọn đề tài để nghiên cứu. Đồng thời xác định mục tiêu, đối
tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó, nêu ý nghĩa thực tiễn,
đóng góp của đề tài nghiên cứu về phương diện lý thuyết và thực tiễn, tiếp đến
giới thiệu về kết cấu của luận văn. Mục đích chính là trình bày và giới thiệu vấn đề
nghiên cứu một cách tổng quát dựa trên lý thuyết và thực tiễn. Đây là phần mở đầu
trước khi chuyển sang phần quan trọng, các chương đóng vai trò làm sáng tỏ cơ sở
lý luận, rút trích các mô hình nghiên cứu thực tiễn để tiến hành nghiên cứu và đưa
ra kết quả thực nghiệm.
7
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH
NGHIÊN CỨU
Dịch vụ, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng là thước đo
đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp không chỉ
cung cấp dịch vụ cơ bản, mà bổ sung giá trị gia tăng nhằm đem đến sự hài lòng
cho khách hàng thông qua việc sử dụng hoặc trải nghiệm. Trong nền công nghiệp
hiện đại, mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng càng
được chú trọng. Đây cũng là nền tảng để tạo sự khác biệt về chiến lược phát triển
giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Chương này sẽ nêu tổng quan
các khái niệm, mối quan hệ giữa các khái niệm. Đồng thời trình bày các mô hình
lý thuyết nền, cơ sở nghiên cứu thực tiễn trong lĩnh vực du lịch trong và ngoài
nước, từ đó xây dựng nền tảng phương pháp luận, áp dụng nghiên cứu đề tài.
2.1.
Tổng quan các khái niệm
2.1.1. Dịch vụ, chất lượng dịch vụ
Cùng với nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được đề cập là một trong
ba lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Trong cơ cấu của một nền kinh tế hiện
đại thì dịch vụ là một thành phần không thế thiếu. Bên cạnh đó, dịch vụ được
xem là ngành công nghiệp không khói, mang lại giá trị kinh tế lớn. Nhằm thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì hàng hóa, dịch vụ càng được quan
tâm, phát triển. Phát triển dịch vụ đã trở thành xu hướng, mũi nhọn tập trung và
chú trọng của mỗi quốc gia. Đồng thời dịch vụ cũng trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế học, văn hóa học, luật
học, hành chính học và cả khoa học quản lý, v.v. Chính sự đa dạng trong phạm vi
áp dụng nên dịch vụ nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các
nhà quản trị. Từ đó, dịch vụ cũng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,
đồng thời dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
8
Theo Philip Kotler, “dịch vụ là bất kỳ hoạt động hay lợi ích nào mà chủ
thể này cung cấp cho chủ thể kia, trong đó đối tượng cung cấp nhất thiết phải
mang tính vô hình và không thể dẫn đến quyền sở hữu một vật nào cả, còn việc
sản xuất dịch vụ có thể hoặc không có thể gắn liền với một sản phẩm vật chất
nào” (Kotler, 2000). Định nghĩa của AMA (Hiệp hội Marketing Mỹ) thì cho rằng,
“dịch vụ là những hoạt động có thể riêng biệt nhưng phải mang tính vô hình nhằm
thoả mãn nhu cầu, mong muốn của khách hàng, theo đó dịch vụ không nhất thiết
phải sử dụng sản phẩm hữu hình, nhưng trong mọi trường hợp đều không diễn ra
quyền sở hữu một vật nào cả” (Lovelock & Wirtz, 2011).
Tại Việt Nam, Luật Giá 2012 nêu “dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình,
quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ
trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật”.
Từ những quan trên,, có thể đưa ra những nhận định chung như sau:
Khái niệm về dịch vụ tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
trong từng giai đoạn cụ thể. Mặc khác nó còn tùy thuộc vào phương pháp luận
kinh tế của các quốc gia đó. Những quan niệm khác nhau sẽ có tác động khác nhau
đến chất lượng dịch vụ, đến qui mô, tốc độ phát triển cũng như tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Việc tìm hiểu về dịch vụ, từ định nghĩa của Philip Kotler đến Hiệp Hội
Marketing của Mỹ và Luật Giá 2012 của Việt Nam, giúp chúng ta có cách nhìn
tổng quan, hiểu rõ bản chất của dịch vụ. Trên cơ sở đó, các chủ thể liên quan như
doanh nghiệp, khách hàng hiểu được trách nhiệm và quyền lợi của mình trong
quan hệ trao đổi dịch vụ dựa trên các đặc điểm của dịch vụ.
Từ những định nghĩa về dịch vụ, chúng ta có thể thấy được bản chất của
dịch vụ thể hiện qua 4 đặc tính như sau: tính vô hình, tính không thể tách rời, tính
không đồng nhất, tính không thể cất trữ. Trong đó, đặc tính vô hình được thể hiện
ở chỗ người ta không thể nào dùng các giác quan để cảm nhận được các tính chất
cơ lý hóa của dịch vụ. Ví dụ như dịch vụ bưu chính viễn thông, không ai có thể chỉ
ra được hình dáng của loại hình dịch vụ đó.
9
Dịch vụ còn mang tính không thể tách rời, quá trình cung ứng và tiêu thụ
dịch vụ diễn ra đồng thời. Người cung ứng dịch vụ sẽ bắt đầu cung ứng dịch vụ thì
đó cũng là lúc người tiêu dùng bắt đầu quá trình tiêu dùng dịch vụ, và khi người
tiêu dùng dịch vụ chấm dứt quá trình tiêu dùng dịch vụ của mình thì đó cũng là lúc
mà người cung ứng dịch vụ chấm dứt quá trình cung ứng dịch vụ.
Đặc tính thứ ba của dịch vụ là tính không đồng nhất, do rất khó để có thể
có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá được chất lượng của dịch vụ. Thậm chí
cùng một loại hình dịch vụ cũng không có tiêu chí để đánh giá chất lượng bởi vì
chất lượng của sản phẩm nói chung sẽ được đánh giá trước tiên thể hiện qua chỉ số
kỹ thuật, tuy nhiên vì dịch vụ mang tính vô hình nên rất khó có được những chỉ số
kỹ thuật và ở đây chất lượng dịch vụ được thể hiện ở sự thỏa mãn, hài lòng của
người tiêu dùng – nhưng sự hài lòng của người tiêu dùng cũng rất khác nhau, do
đó việc đồng nhất chất lượng dịch vụ cũng trở nên bất khả thi.
Đặc tính cuối cùng của dịch vụ là hệ quả của tính vô hình và không thể
tách rời, tính không thể cất trữ. Ở đây nhà cung cấp dịch vụ không thể cất trữ
những dịch vụ nhưng họ cất trữ khả năng cung cấp dịch vụ cho những lần sau.
Tính không lưu giữ của dịch vụ không phải là vấn đề quá lớn nếu như nhu cầu
mang tính ổn định và có thể dự đoán trước. Nhưng trên thực tế, nhu cầu về dịch
vụ thường không ổn định, luôn dao động do đó các công ty cung ứng dịch vụ sẽ
gặp những vấn đề trở ngại về sử dụng nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Trên đây là bốn điểm đặc trưng của dịch vụ, tuy nhiên, trong khoa học
không có gì là tuyệt đối mà chỉ mang tính tương đối, do đó 4 đặc điểm nêu trên
cũng vậy. Điểm cốt lõi của dịch vụ nằm ở chất lượng, bởi chất lượng dịch vụ tác
động mạnh mẽ đến sự hài lòng hoặc không hài lòng của khách hàng, đây là tiêu
chí quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, một tổ chức.
Dựa trên các nghiên cứu, chất lượng dịch vụ là thước đo mức độ cung cấp
dịch vụ phù hợp với mong muốn của khách hàng (Parasuraman, Zeithaml, &
Berry, 1985). Tuy nhiên việc đánh giá chất lượng dịch vụ sẽ khó khăn đối với
người tiêu dùng hơn việc đánh giá chất lượng sản phẩm. Đánh giá chất lượng
10
không chỉ được thực hiện trên kết quả của một dịch vụ mà nó còn liên quan đến
việc đánh giá cả quá trình thực hiện dịch vụ. Đồng thời, chất lượng dịch vụ là kết
quả của việc nhận thức về chất lượng dịch vụ từ sự so sánh giữa mong đợi của
khách hàng với dịch vụ thực tế nhận được.
Vì bản chất của dịch vụ là vô hình và không được chuẩn hóa rõ ràng nên
gây khó khăn trong việc đánh giá. Do đó, để đánh giá chất lượng dịch vụ, khách
hàng chỉ có con đường duy nhất là trải nghiệm (Zeithaml, 1981), (Van Riel, 2001).
Chính sự gắn kết không thể thay thế giữa khách hàng với dịch vụ, nên khi đánh giá
về chất lượng của dịch vụ, khách hàng phải tương tác, trải nghiệm. Dịch vụ hay
chất lượng dịch vụ giữ vai trò quan trọng trong việc tác động đến sự hài lòng của
khách hàng thông qua con đường trải nghiệm. Hay nói cách khác, sự hài lòng của
khách hàng bằng việc trải nghiệm là thước đo chân thật nhất về chất lượng dịch
vụ. Tuy nhiên, khái niệm về sự hài lòng cũng rất đa dạng, đây là vấn đề được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
2.1.2. Sự hài lòng của khách hàng
Trong ba thập kỷ qua, có một số khái niệm về sự hài lòng của khách hàng
được bàn luận. Theo đó, Anderson và cộng sự 1994, đề xuất hai định nghĩa về sự
hài lòng của khách hàng, phù hợp với hai luồng ý kiến về trải nghiệm của khách
hàng được xác định trong các nghiên cứu. Một trong hai định nghĩa nêu rằng, “sự
hài lòng của khách hàng được xác định là kết quả của việc đánh giá về tổng thể
trải nghiệm dịch vụ tiêu thụ qua thời gian” (Anderson, Fornell, & Lehmann,
1994).
Theo Oliver, “sự hài lòng của khách hàng là trạng thái tâm lý mà khách
hàng cảm nhận khi những kỳ vọng của họ được thoả mãn hoặc là thoả mãn vượt
qua sự mong đợi thông qua tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ” (R. L. Oliver, 1997)
dẫn theo Võ Thị Ngọc Thúy, Hoàng Đoàn Phương Thảo, Mai Thu Phương (2017).
Trong khi đó, Kotler cho rằng “sự hài lòng như là một cảm giác hài lòng hoặc thất
vọng của một người bằng kết quả của việc so sánh thực tế nhận được của sản
phẩm hay kết quả trong mối liên hệ với những mong đợi của họ” (Kotler, 2000).
11
Trước đó, Woodruff, Cadotte & Jenkins, 1983 đã đưa ra định nghĩa: “Sự
hài lòng là sự so sánh của những kỳ vọng với những trải nghiệm”. Họ phân tích sự
hài lòng như sau:
Nếu sự cảm nhận ≥ sự kỳ vọng: khách hàng cảm thấy hài lòng. Tức là
những gì họ cảm nhận được lớn hơn hoặc đúng bằng những gì họ mong đợi. Nên
du khách có xu hướng hài lòng với những thuộc tính này. Nếu sự cảm nhận < sự
kỳ vọng: du khách cảm thấy không hài lòng. Tức là những gì họ cảm nhận được
không đúng như họ đã tưởng tượng ra, do đó du khách cảm nhận không hài lòng.
Riêng đối với những yếu tố được đánh giá không tốt hay là những yếu tố tiêu cực,
thì ngược lại. Nghĩa là du khách cảm thấy hài lòng khi “sự cảm nhận ≤ sự kỳ
vọng”, du khách cảm thấy không hài lòng khi “sự cảm nhận > sự kỳ vọng”.
Từ những khái niệm trên, cho thấy sự hài lòng của khách hàng là trạng
thái tâm lý khi nhu cầu của họ được đáp ứng một cách thỏa mãn. Có thể hình dung
cảm giác dễ chịu hoặc thất vọng phát sinh từ việc so sánh giữa lợi ích thực tế nhận
được với những kỳ vọng của khách hàng. Cơ sở để hình thành sự kỳ vọng dựa vào
tri thức khách hàng tự nhận định hoặc do kinh nghiệm tích lũy về chất lượng của
sản phẩm hoặc dịch vụ.
Sự hài lòng là sự so sánh giữa sự cảm nhận thực tế so với mức độ kỳ vọng
của khách hàng đối với chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Nếu thực tế cảm nhận
đáp ứng được kỳ vọng đặt ra, khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng. Ngược lại khách
hàng sẽ cảm thấy thất vọng nếu thực tế thấp hơn so với kỳ vọng của họ. Ngoài ra,
nếu thực tế nhận được cao hơn so với kỳ vọng của khách hàng sẽ tạo nên hiện
tượng hài lòng cao hơn hoặc hiện tượng hài lòng vượt quá mong đợi.
Như đã nêu, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có những đặc trưng riêng, mỗi
đối tượng khách hàng trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ có những thước đo riêng, đo
lường sự hài lòng khi so sánh giữa kỳ vọng với trải nghiệm thực tế họ nhận được.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, đối tượng khách hàng chúng tôi hướng đến
là khách hàng trong lĩnh vực du lịch hay còn gọi lại du khách hoặc khách du lịch.
12
2.1.3. Sự bất mãn của khách hàng
Theo tổng quan, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy sự tác động tuyến
tính của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng của khách hàng; đây cũng là hướng
tiếp cận phổ biến. Tuy nhiên theo nghiên cứu của Giáo sư Noriaki Kano và cộng
sự (1984) đã tìm thấy sự tồn tại vùng trung lập mà ở đó khách hàng không thỏa
mãn cũng không bất mãn. Các tác giả cho rằng “khi khách hàng có sự mong đợi
rất cao về dịch vụ và kết quả cuối cùng đáp ứng đúng mong đợi đó, khoảng cách
bằng không giữa kỳ vọng và dịch vụ nhận được không hẳn đã dẫn đến sự thỏa mãn
của khách hàng” (Võ Thị Ngọc Thúy, Hoàng Đoàn Phương Thảo, Mai Thu
Phương (2017)). Theo đó, các nghiên cứu nhận định quá trình hình thành sự thỏa
mãn không phải lúc nào cũng tuân theo quy luật tuyến tính. Quan điểm này mở ra
hướng tiếp cận mới so với các nghiên cứu trước đây trong việc giải thích cơ chế
hình thành sự hài lòng và bất mãn của khách hàng.
Theo hướng tiếp cận trên, khái niệm về sự bất mãn bắt đầu nhận được sự
quan tâm nhưng vẫn còn khiêm tốn và chưa có sự thống nhất. Tiếp cận theo góc
độ nhận thức của khách hàng, Giese và Cote (2000) chỉ ra rằng “sự bất mãn được
cấu thành bởi ba yếu tố chính: một phản ứng cảm xúc có trọng tâm rõ ràng và xảy
ra ở một thời điểm xác định”. Và cơ chế hình thành sự bất mãn được xem là giống
với cơ chế hình thành sự hài lòng nhưng ở 2 trạng thái khác nhau.
2.1.4. Khách du lịch
Du lịch là hoạt động trải nghiệm hữu ích, giúp con người thư giãn, tiếp
nhận thông tin, tri thức mới về các hoạt động văn hóa, xã hội tại địa phương, khu
vực được chọn làm điểm đến. Du lịch giúp con người thể hiện được sự thỏa mãn
nhu cầu của chính mình trong việc tìm kiếm, khám phá những giá trị mới cho bản
thân, xã hội. Mỗi người đều có cảm nhận khác nhau về giá trị mà du lịch mang lại,
do đó định nghĩa về du lịch cũng sẽ rất đa dạng.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization –
UNWTO), “du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường
sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi
13
giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời
gian liên tục ít hơn một năm. Và du khách hay còn gọi khách du lịch, là những
người đi du lịch đến và ở lại ở những nơi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của
họ trong hơn 24 giờ và không quá một năm liên tiếp cho giải trí, kinh doanh và các
mục đích khác không liên quan đến những nhân viên hướng dẫn du lịch của tổ
chức thực hiện việc du lịch đó”.
Tại Việt Nam, theo Luật Du lịch năm 2017, “du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định. Du khách là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ
trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
Như vậy, hiểu một cách tổng quát, du lịch là hoạt động di chuyển của
con người từ nơi cư trú thường xuyên đến nơi khác trong một khoảng thời gian
nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, tìm hiểu, v.v. loại trừ mục
đích kinh doanh. Nhưng, để đáp ứng đầy đủ, thỏa mãn nhu cầu của du khách thì
phải có một chuỗi các hoạt động dịch vụ kinh doanh trong lĩnh vực du lịch được
thực hiện. Vùng không gian chứa đựng các hoạt động liên quan đến du lịch nêu
trên được gọi là điểm đến du lịch.
2.1.5. Điểm đến du lịch
Khái niệm về điểm đến du lịch là một phạm trù rất rộng, có thể là một
châu lục như Châu Âu, Châu Mỹ, v.v. một khu vực như khu vực ASEAN, là một
đất nước, địa phương hay một thành phố, thị xã. Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO) đưa ra quan niệm về điểm đến du lịch như sau “Điểm đến du lịch là
vùng không gian địa lý mà khách du lịch ở lại ít nhất một đêm, bao gồm các sản
phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp, các tài nguyên du lịch thu hút khách, có ranh
giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về hình ảnh để xác định khả năng
cạnh tranh trên thị trường”.
14
Một khái niệm khác dễ gây nhầm lẫn điểm đến du lịch là điểm tham
quan du lịch. Hai khái niệm này gần như tương đồng và điểm khác nhau cơ bản là
khoảng thời gian sử dụng dịch vụ tại chỗ. Du khách đến điểm tham quan du lịch
và sử dụng các dịch vụ tại đây nhưng không ngủ lại một đêm, điểm đến du lịch thì
ngược lại như định nghĩa nêu trên. Mặt khác, điểm tham quan du lịch rất đa dạng
và thường nằm trong một điểm đến du lịch.
Tại Việt Nam, Luật Du lịch nêu ba khái niệm như sau “Đô thị du lịch là
đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai trò quan trọng trong hoạt động
của đô thị. Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài
nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường.
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch”.
Như vậy, điểm tham quan và điểm đến du lịch được nêu tại Việt Nam có
những điểm chung nhất định so với thế giới. Tại điểm đến du lịch, ngoài tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn còn có các dịch vụ hỗ trợ khác để tạo nên sự
hấp dẫn, đặc biệt là phát triển sản phẩm du lịch. Các yếu tố tạo nên giá trị và giá trị
sử dụng của sản phẩm du lịch bao gồm hệ thống các hoạt động dịch vụ nhằm thỏa
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của du khách như ẩm thực, lưu trú, mua sắm,
giải trí, môi trường, giá cả, con người, cơ sở hạ tầng du lịch và chất lượng dịch vụ.
Hiệu quả kinh tế xã hội do hoạt động du lịch đem lại cho địa phương tập
trung tại điểm tham quan du lịch và điểm đến du lịch. Để điểm đến du lịch trở nên
hấp dẫn, thu hút khách đòi hỏi phải có sự quản trị kinh doanh điểm đến, đây là
điều quan trọng theo nhận định của các nhà chuyên môn. Quản trị kinh doanh
điểm đến liên quan đến rất nhiều mảng như marketing, tuyên truyền, chính sách hỗ
trợ từ phía chính quyền, nhận thức của đội ngũ phục vụ, người dân địa phương để
từ đó xúc tiến phát triển sản phẩm, hoạt động dịch vụ tại điểm đến. Đặc biệt là sự
phối kết hợp chặt chẽ của con người, cơ sở vật chất tại điểm đến nhằm nâng cao
chất lượng phục vụ du khách đem lại cảm xúc và trải nghiệm sâu sắc cho họ.
15
Các khái niệm về dịch vụ, chất lượng dịch vụ, sự hài lòng và bất mãn của
khách hàng, khái niệm về du lịch, điểm đến du lịch vừa nêu là nền tảng lý thuyết
của các vấn đề liên quan mà đề tài nghiên cứu sẽ khai thác. Trên cơ sở đó, nghiên
cứu sẽ tiếp tục trình bày mối tương quan giữa các khái niệm, các mô hình lý thuyết
nền và những nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về lĩnh vực du lịch. Từ
đó trích lược những yếu tố cần thiết, phù hợp với hiểu biết của người viết, phạm vi
thực hiện để đề xuất mô hình nghiên cứu của đề tài.
2.2.
Mối quan hệ giữa các khái niệm và các lý thuyết liên quan
2.2.1. Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng
Theo nghiên cứu của Parasuraman, Zeithaml và Berry (1985), cho rằng
“khi chất lượng dịch vụ được nhận thức càng cao thì càng gia tăng sự hài lòng của
khách hàng”. Kế thừa lý thuyết trên, một số tác giả khác cũng thừa nhận rằng “sự
hài lòng của khách hàng dựa trên mức độ chất lượng dịch vụ do các nhà cung cấp
dịch vụ thực hiện” (Saravanan & Rao, 2007).
Vì “sự hài lòng của khách hàng dựa trên cơ sở trải nghiệm của khách
hàng về việc tương tác với một dịch vụ cụ thể” (Cronin & Taylor, 1992), phù hợp
với thực tế rằng chất lượng dịch vụ là yếu tố quyết định sự hài lòng của khách
hàng, bởi vì chất lượng dịch vụ là kết quả của việc cung cấp dịch vụ từ các nhà
cung cấp. Một tác giả khác cho rằng “định nghĩa về sự hài lòng của người tiêu
dùng liên quan đến một giao dịch cụ thể (sự khác biệt giữa dịch vụ dự đoán và
dịch vụ cảm nhận) trong tương phản với “thái độ”, có tính bền vững hơn và kèm
theo định hướng” (Lewis, 1993).
Theo R. Oliver, 1993, “chất lượng dịch vụ trước hết phải được đánh giá
từ sự hài lòng của khách hàng, bất kể là các cấu trúc này đề cập đến kinh nghiệm
tích lũy hay giao dịch đặc biệt”. Một số nhà nghiên cứu khác đưa ra các nghiên
cứu thực nghiệm làm sáng tỏ quan điểm trên, họ cho rằng “sự hài lòng của khách
hàng xuất phát từ kết quả của chất lượng dịch vụ” (Anderson & Sullivan, 1993).
Trên thực tế, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra ý nghĩa và thang đo về sự hài lòng và
16
chất lượng dịch vụ. Sự hài lòng và chất lượng dịch vụ có những điểm chung,
nhưng khái niệm về sự hài lòng tương đối rộng hơn, trong khi đó chất lượng dịch
vụ lại tập trung cụ thể vào quy mô của dịch vụ.
Từ những luận cứ trên, cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa sự hài lòng
của khách hàng với chất lượng dịch vụ. Doanh nghiệp tạo ra sản phẩm, dịch vụ
cung cấp cho khách hàng nhằm thu lại lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển
hoạt động. Thang đo cụ thể để đánh giá kết quả giữa mối quan hệ mang tính chất
trao đổi lợi ích giữa hai bên là chất lượng dịch vụ, sản phẩm và sự hài lòng của
khách hàng. Khi công cụ đo lường càng chi tiết thì càng có ý nghĩa định lượng
giúp các nhà quản trị kinh doanh xác định được vấn đề cần chú trọng đầu tư và
phân định được mức độ tập trung cần thiết, phù hợp để từ đó thiết lập chiến lược
kinh doanh hiệu quả.
Thang đo về sự hài lòng của khách hàng với chất lượng dịch vụ đóng vai
trò quan trọng nên có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm giải thích, biện
dẫn và áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của các nhà khoa học trên thế giới
và tại Việt Nam. Bất luận sự đa dạng nghiên cứu được thực hiện từ trước đến nay
thì mô hình lý thuyết vững chắc nhất, là nền tảng đánh giá thang đo này là mô hình
chất lượng dịch vụ ảnh hưởng đến sự hài lòng của Parasuraman và cộng sự (1985).
Mô hình SERVQUAL của Parasuraman và cộng sự (1988)
Parasuraman và cộng sự (1985) cho rằng: “Chất lượng dịch vụ là khoảng
cách giữa sự mong đợi (kỳ vọng) của khách hàng và nhận thức (cảm nhận) của họ
khi đã sử dụng qua dịch vụ”. Họ đưa ra vấn đề nghiên cứu:
Một, làm thế nào đo lường khoảng cách các cấp độ khác nhau bằng việc
sử dụng một công cụ đo lường tiêu chuẩn.
Hai, các yếu tố nào tác động tới các khoảng cách đó, có sự khác nhau về
khoảng cách giữa các ngành công nghiệp không.
Ba, mô hình chất lượng dịch vụ được xây dựng dựa trên việc phân tích
các khoảng cách chất lượng dịch vụ.
17
Trên cơ sở vấn đề đặt ra, Parasuraman và cộng sự nêu năm khoảng cách
đo lường chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng như sau:
Khoảng cách 1: Khoảng cách giữa nhận thức của công ty về kỳ vọng của
khách hàng với kỳ vọng của khách hàng.
Khoảng cách 2: Khoảng cách giữa nhận thức của công ty về kỳ vọng của
khách hàng với các tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ.
Khoảng cách 3: Khoảng cách giữa tiêu chuẩn dịch vụ với dịch vụ thực tế
cung cấp cho khách hàng.
Khoảng cách 4: Khoảng cách giữa chất lượng dịch vụ thực tế cung cấp
và chất lượng dịch vụ đã thông tin tới khách hàng.
Khoảng cách 5: Khoảng cách giữa dịch vụ khách hàng nhận được và kỳ
vọng của khách hàng về dịch vụ.
Song song với mô hình khoảng cách chất lượng dịch vụ, các tác giả phát
triển 10 yếu tố chất lượng dịch vụ. Đến năm 1988, mô hình này được đặt tên là mô
hình SERVQUAL là từ ghép của hai chữ chất lượng và dịch vụ, dùng để đánh giá
cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Mô hình rút gọn 10 đặc tính chất
lượng dịch vụ ban đầu thành 5 đặc tính chất lượng dịch vụ gồm phương tiện hữu
hình, sự tin cậy, sự đáp ứng, sự bảo đảm, sự đồng cảm như sau:
Sự đồng cảm
Tính hữu hình
Sự tin cậy
SỰ HÀI LÒNG
Sự đảm bảo
Sự đáp ứng
Hình 2.1 Mô hình SERVQUAL của Parasuraman và cộng sự (1988)