LVTN-8722_Khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái phục vụ cho phát triển du lịch

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG
——————————-

ISO 9001:2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: QUẢN TRỊ DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH

Sinh viên:

VŨ TRUNG KIÊN
Giảng viên hướng dẫn: TH.S NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

HẢI PHÒNG – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG

———————————–

KHAI THÁC MÚA XÒE THÁI TẠI MƯỜNG LÒ, YÊN BÁI
PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH: QUẢN TRỊ DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH

Sinh viên : VŨ TRUNG KIÊN
Giảng viên hướng dẫn: TH.S NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

HẢI PHÒNG – 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG

————————————–

NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP

Sinh viên: Vũ Trung Kiên Mã SV:1512405002
Lớp: Dl 1901
Ngành:
Quản Trị Du Lịch Và Lữ Hành
Tên đề tài: Khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái phục vụ
cho phát triển du lịch

NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI

1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp
( về lý luận, thực tiễn, các số liệu cần tính toán và các bản vẽ).
– Tìm hiểu về múa Xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái
– Phân tích thực trạng khai thác múa Xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái cho
sự phát triển du lịch
– Đề suất giải pháp nhằm khai thác múa xòe nhằm nâng cao hiệu quả khai
thác và công tác quản lý phục vụ cho sự phát triển của du lịch Yên Bái
2. Các số liệu cần thiết để thiết kế, tính toán.
– Các số liệu về lượng khách du lịch đến Yên Bái
– Số liệu về nguồn vốn xã hội hóa thu được
3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp.
Công ty cổ phần du lịch và dịch vụ Hòn Gai
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn thứ nhất:
Họ và tên

: NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
Học hàm, học vị
: Th.sĩ
Cơ quan công tác
:Trường Đại học Quản lý và công nghệ Hải Phòng
Nội dung hướng dẫn:
-Hướng dẫn cách tìm kiếm, thu thập và xử lý tài liệu
-Hướng dẫn xây dựng đề cương chi tiết
-Hướng dẫn cách làm nghiêm cứu khoa học
-Đọc và chỉnh sửa, góp ý nội dung khóa luận
Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 15 tháng 10 năm 2019
Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 5 tháng 1 năm 2020

Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN
Sinh viên

Người hướng dẫn

Vũ Trung Kiên ThS. Nguyễn Thị Phương Thảo

Hải Phòng, ngày 05 thá 01 năm 2020
Hiệu trưởng

GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị
PHẦN NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Họ và tên giảng viên : ThS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
Cơ quan công tác
: Trường Đại học Quản lý và công nghệ Hải Phòng
Họ và tên sinh viên : Vũ Trung Kiên

Đề tài tốt nghiệp
: Khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái
phục vụ cho phát triển du lịch
1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp:
-Thực hiện nghiệm túc các yêu cầu để phục vụ nội dung nghiêm cứu.
-Có ý thức kỉ luật tốt, chăm chỉ chịu khó học hỏi.
-Hoàn thành đề tài đúng thời hạn
2. Đánh giá chất lượng của khóa luận (so với nội dung yêu cầu đã đề ra
trong nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số
liệu…):
– Về lý luận tác giả đã nêu khái quát, phân tích và đưa ra các khái niệm
điểm du lịch.
– Về thực tiễn tác giả đã nêu và đánh giá thực trạng phát triển múa xòe
Thái tại Mường Lò,Yên Bái, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khai
thác cho phát triển du lịch tại Yên Bái.
– Đề tài đáp ứng yêu cầu đề ra về lý luận và thực tiễn, đạt chất lượng tốt
của khóa luận tốt nghiệp đại học nghành Việt Nam Học ( Quản trị du lịch
và lữ hành.
3. Ý kiến của giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp
Được bảo vệ
Không được bảo vệ

Điểm hướng dẫn

Hải Phòng, ngày 05 tháng 01 năm 2020
Cán bộ hướng dẫn
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép em xin được gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô, trường
Đại học Quản lý và Công nghệ Hải Phòng đã tạo điều kiện để em được làm bài
khóa luận tốt nghiệp.
Và đặc biệt xin được cảm ơn cô Th.S Nguyễn Thị Phương Thảo – Giảng
viên hướng dẫn – giảng viên khoa du lịch của trường Đại học Quản Lý Và Công
Nghệ Hải Phòng đã nhiệt tình giúp đỡ em, và chỉ ra những lỗi sai trong quá trình
làm khóa luận tốt nghiệp của mình để em có thể hoàn thành tốt.
Xin chân thành cảm ơn Sở Du Lịch Hải Phòng, thư viện trường đã tạo điều
kiện cho em trong suốt quá trình khảo sát và thu thập tư liệu có liên quan đến đề
tài khóa luận.
Trong quá trình làm đề tài do còn thiếu kinh nghiệm rất nhiều nên bài báo
cáo chắc chắn còn sơ sài, rất nhiều những hạn chế mong được thầy cô chỉ bảo
những lỗi sai để em khắc phục.

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
1.
LỜI MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………………. 1
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………… 2
4.
Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………….. 3
5.
Nội dung và bố cục của khóa luận
……………………………………………………… 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI THÁI VÀ MÚA XÒE THÁI ….. 4
1.1
Khái quát về tộc người Thái ……………………………………………………………… 4
1.1.2 Lịch sử …………………………………………………………………………………………… 4
1.1.3 Dân số và địa bàn cư trú: ………………………………………………………………….. 6
1.1.4 Một số nét trong văn hóa tộc người Thái…………………………………………….. 8
1.2. Khái quát chung về múa xòe Thái ……………………………………………………. 11
1.2.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và phát triển ………………………………………….. 11
1.2.1.1 Tên gọi
……………………………………………………………………………………….. 11
1.2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển
…………………………………………………….. 11
1.2.2. Vai trò của múa xòe trong đời sống văn hóa của tộc người Thái ………… 12
1.2.3. Múa xòe Thái ở một số địa phương ………………………………………………… 13
Tiểu kết chương 1…………………………………………………………………………………..24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC MÚA XÒE THÁI TẠI MƯỜNG
LÒ, YÊN BÁI CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH …………………………………………. 16
2.1.2 Điều kiện kinh tế – xã hội. ………………………………………………………………. 18
2.2
Múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái ……………………………………………… 22
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển múa xòe Thái tại Mường Lò ……………… 22
2.2.2. Đặc trưng của múa xòe Thái tại Mường Lò
………………………………………. 23
2.2.3. Những giá trị của múa xòe Thái
………………………………………………………. 30
2.3. Hiện trạng khai thác múa xòe Thái cho hoạt động du lịch tại Mường Lò
… 33
2.3.1. Lượng khách, doanh thu từ hoạt động du lịch tại Mường Lò
………………. 33
2.3.1.1 Lượng Khách
………………………………………………………………………………. 33
2.3.1.2 Doanh thu từ hoạt động du lịch tại Mường Lò ………………………………… 34
2.3.2 Các điểm du lịch hấp dẫn tại Mường Lò…………………………………………..45
2.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch……………………………………………..46
2.3.4 Múa xòe Thái trong các sản phẩm du lịch và sự kiện du lịch tại Mường
Lò………………………………………………………………………………38
2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác múa xòe Thái cho hoạt
động du lịch …………………………………………………………………………………………… 44
2.4.1. Thuận lợi ……………………………………………………………………………………… 44
2.4.2. Khó khăn ……………………………………………………………………………………… 45
Tiểu kết chương 2………………………………………………………………54
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC MÚA XÒE THÁI
TẠI MƯỜNG LÒ, YÊN BÁI PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI
YÊN BÁI
………………………………………………………………………………………………. 47
3.1 Chú trọng công tác bảo tồn múa xòe Thái ……………………………………………. 47
3.2 Tăng cường đưa múa xòe Thái vào các sự kiện và sản phẩm du lịch………. 57
3.3 Thu hút cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động du lịch ……………… 49
3.3.1 Đào tạo nguồn nhân lực ………………………………………………………………….. 49
3.3.2 Chính sách hỗ trợ tài chính đối với những người trong hoạt động trong
lĩnh vực du lịch.
……………………………………………………………………………………… 50
3.4 Cải thiện về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch ………………………………………….. 50
3.5 Đẩy mạnh công tác quảng bá, truyền thông
………………………………………….. 52
Tiểu kết chương 3
…………………………………………………………………………………… 53
Kết Luận ……………………………………………………………………………………………….. 54

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu được trong đời sống văn hoá xã hội và hoạt động du lịch đang được phát
triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Du lịch không chỉ để con người nghỉ ngơi giải trí, mà con nhằm
thoả mãn nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi tỉnh
thành đều có những đặc trưng riêng về tự nhiên, lịch sử, văn hoá, truyền thống…
thu hút khách du lịch. Thông qua việc phát triển du lịch, sự hiểu biết và mối
quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các tỉnh thành trong cả nước ngày càng
được mở rộng vì nền hoà bình và tình hữu nghị trên toàn thế giới. Ngày nay du
lịch du lịch mang tính nhận thức và tính phổ biến với mục tiêu không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, củng cố hoà bình và hữu
nghị giữa các dân tộc.
Trong tiến trình lịch sử của mình,cộng đồng dân tộc Thái đã sáng tạo và
xây dựng được một bản sắc văn hóa độc đáo, thể hiện được trình độ tư duy và
nghệ thuật sáng tạo của dân tộc mình, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn
hóa chung của các dân tộc Việt Nam. Giá trị văn hóa của dân tộc Thái được biểu
hiện trong sinh hoạt hàng ngày với nhiều giá trị vật chất và tinh thần.
Người Thái là một dân tộc yêu ca hát với nhiều điệu múa xòe. Múa sạp
Thái đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước. Ngoài ra nhạc cụ của
dân tộc Thái có các loại sáo (pí), nhị (xi xo), đàn môi (hưn mư), đặc biệt là khèn
bè (khen be), ống tiêu, nhạc khua loòng. Một trong những sinh hoạt văn hóa của
dân tộc Thái là xòe vòng. Đây là điệu múa xòe tập thể của dân tộc Thái có từthời
tiền sử. Đến nay vẫn không thể thiếu trong các cuộc vui chơi, hội hè. Mỗi khi
âm thanh trầm bổng, nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại thôi thúc mọi người đến
với vòng xòe. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, mọi người xích lại gần nhau,
quây quần bên nhau, vui tươi, đầm ấm. Theo sách chữ Thái cổ, vòng xòe tượng
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
2

trưng cho gốc cây cổ thụ khổng lồ, người là rễ bám sâu vào lòng đất, chẳng sợ gì
bão táp trần gian. (Võng xẽ ló kốc mạy nháu ók khôn. Phú kổn ló háu hạk chắp
đin, báu kua xăng phôn lỗm nẵng chuỗng mưỡng lưm). Vòng xòe biểu thị sự
đoàn kết nhất trí, không phân biệt tuổi tác, già trẻ, trai gái, dân tộc, đẳng cấp, tay
nắm chặt tay ung dung bước qua khó khăn, sóng gió, bỏ mất buồn phiền của
vòng đời trần gian, tiến tới tương lai.
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái
còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “ Táy Đăm” là Thái Đen.
Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ
nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống.
Xòe Thái là nghệ thuật múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống của cộng đồng người Thái vùng Tây Bắc nước ta, nhất là ở 4 tỉnh
gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Yên Bái. Trong đó, Yên Bái là tỉnh được
lựa chọn đăng cai xây dựng hồ sơ nghệ thuật xòe Thái trình UNESCO công
nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.Đây là loại hình nghệ
thuật có giá trị rất lớn và đã được các địa phương khai thác cho hoạt động du
lịch, tuy nhiên hiệu quả khai thác còn khá hạn chế. Chính vì vậy, tác giả đã chọn
đề tài “Khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái phục vụ cho phát triển
du lịch” với mong muốn vừa phát huy được hết giá trị của các điệu xòe trong
hoạt động phát triển du lịch của địa phương và góp phần bảo tồn loại hình nghệ
thuật truyền thống này.
Tìm hiểu về múa xòe Thái và thực trạng khai thác múa xòe Thái tại
Mường Lò, Yên Bái cho hoạt động du lịch từ đó đề xuất các giải pháp để bảo
tồn và khai thác hiệu quả hơn cho hoạt động phát triển du lịch
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái và thực trạng khai thác
múa xòe Thái cho phát triển du lịch
Phạm vi: Mường Lò, Yên Bái. Các số liệu từ năm 2015 trở lại đây
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
3

3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài đặt ra, và giải quyết các luận
điểm của mình, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
– Phương pháp phân tích tổng hợp.
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu và chọn lọc
nhiều nguồn tư liệu tham khảo khác nhau khi tìm kiếm các thông tin cần thiết
như: các bài báo trên tạp chí, báo Internet, các bài luận văn và các đề tài nghiên
cứu khoa học có liên quan…
4. Nội dung và bố cục của khóa luận
Kết cấu bố cục của đề tài khóa luận bao gồm phần mở đầu, các chương
chính, kết luận – kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ luc. Phần nội dung chính
được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tộc người Thái và múa xòe Thái
Chương 2: Thực trạng khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên bái cho sự
phát triển du lịch
Chương 3: Một số giải pháp nhằm khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên
Bái phục vụ cho phát triển du lịch tại Yên Bái

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI THÁI VÀ MÚA XÒE THÁI 1.1 Khái quát về
tộc người Thái
Người Thái tên tự gọi là tãy, tay, tày tùy thuộc vào cách phát âm địa
phương. Các nhóm ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm : Tày Khao,
Tày Đón ( Thái trắng), Tày Đăm ( Thái Đen ), Tày Đèng ( Thái Đỏ ), Tày Mười
, Tày Thanh ( Man Thanh, Tày Mường) Phu Thay – Thổ Đà Bắc. Hộ Đã có mặt
ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là hậu duệ những người Thái đã di cư
từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.
1.1.2 Lịch sử
Dựa trên các chứng cứ về di truyền, Jerold A. Edmondson cho rằng tổ tiên
của các cư dân nói ngôn ngữ Tai-Kadai di cư từ Ấn Độ tới Myanmar, rồi sau đó
tới Vân Nam (Trung Quốc) khoảng 20.000 – 30.000 năm trước. Từ đó họ đến
đông bắc Thái Lan và sau đó di cư dọc vùng duyên hải Hoa Nam lên phía bắc
đến cửa sông Trường Giang, gần Thượng Hải khoảng 8-10.000 năm trước. Vào
thời kỳ vương quốc Nam Chiếu và Đại Lý tồn tại từ TK 8 đến TK 13, cũng như
sau đó, họ từ đó chiếm lĩnh Thái Lan và Lào.
Theo David Wyatt, trong cuốn “Thailand: A short history (Thái Lan: Lịch
sử Tóm lược)”, người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc
với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của
người Hán và người Việt ở phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam
và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ
VII đến thế kỷ XIII. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh).
Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang
Shan ở Miến Điện và một số vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam.
Theo sách sử Việt Nam, vào thời Nhà Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức
người Thái, đây là âm Hán Việt phiên từ tiếng Thái: ngũ háu – tức là “rắn Hổ
mang”) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
5

XIII, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại Nhà Trần và bị
đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt dưới
quyền quản lý trực tiếp của quan quân Nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị
giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại
Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao
cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại
Mương Lễ (tức Mường Lay, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa
(Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (tức
Mường Muổi, Sơn La), Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu.
Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên)
Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện
và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ tạo, được phép cai quản một số lãnh
địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các
châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa,
Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc;
dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu
Việt…
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình Nhà
Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn
sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Pháp là Auguste
Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha
truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên
giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan của
đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ,
còn gọi là xứ Thái. Tháng 3, 1948 lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên
bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
6

tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả
các khu này đều bị giải tán năm 1975.
1.1.3 Dân số và địa bàn cư trú:
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân
là 1.328.725 người, chiếm 1,74% dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh
Lai châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6% tổng số người Thái ở Việt
Nam)và một số ở Tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk. Trong đó tại Sơn La có 482.485
người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa
có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên)
có 206.001 người (35,1 % dân số).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có
dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt
trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn
La [Mương La] (572.441 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số
người Thái tại Việt Nam), Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn
tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam), Thanh Hóa (225.336 người,
chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam), Điện
Biên [Mương Thèng ] (186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0%
tổng số người Thái tại Việt Nam), Lai Châu [ Mương Lay ] (119.805 người,
chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam), Yên
Bái [ Mường Lò ] (53.104 người), Hòa Bình(31.386 người), Đắk Lắk (17.135
người), Đắk Nông (10.311 người)…
Các nhóm người Thái
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm/Tai Dam/) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và
Điện Biên –Mường La- Mường Thèng). Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh),
Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An cũng mới từ mạn Tây
Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
7

nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh
(Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba
trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh
hưởng văn hóa Lào. Dân số của nhóm Thái Đen tại Việt Nam năm 2002 ước
tính khoảng 699.000 người trong tổng số 763.950 người Thái Đen trên toàn thế
giới. Ngoài ra còn có khoảng 50.000 người Thái Đen hay Tày Mười sinh sống
tại tỉnh Khăm Muộn, Lào (số liệu 1995); 10.000 người Thái Đen (một phần
của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc (số liệu 1995) và 700 người Thái Đen sinh sống tại
tỉnh Loei, Thái Lan (số liệu 2004, nhóm này đến Thái Lan vào năm 1885).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón/Táy Khao, cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu,
Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà
Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã
Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số địa bàn Thái Trắng chịu
ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã
Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai
Châu, Điện Biên từ thế kỷ XIII và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là
huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ XIV, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và
Thanh Hóa thế kỷ XV. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở
Trung Quốc. Dân số của nhóm Thái Trắng tại Việt Nam năm 2002 ước tính
khoảng 280.000 người trong tổng số 490.000 người Thái Trắng trên toàn thế
giới. Ngoài ra còn có khoảng 200.000 người Thái Trắng sinh sống tại Lào
(thống kê năm 1995); 10.000 người Thái Trắng (một phần của dân tộc Thái theo
phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số
liệu 1995).
Nhóm Thái Đỏ (Tai Daeng – Tày Đèng), gồm nhiều nhóm khác nhau cư
trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và
các huyện miền núi như Bá Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con
Cuông, Tương Dương (Nghệ An). Dân số của nhóm Thái Đỏ tại Việt Nam năm
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
8

2002 ước tính khoảng 140.000 người trong tổng số 165.000 người Thái Đỏ trên
toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 25.000 người Thái Đỏ sinh sống tại
tỉnh Sầm Nưa, Lào (số liệu 1991).
Một số nhóm có dân số ít hoặc chưa được phân định rõ ràng như Tày
Mười (sống xen kẽ với nhóm Tày Thanh và Tày Mường ở Nghệ An) có khoảng
300 người (2002), Tày Mường (Thái Hàng Tổng,Thái Do, Tày Dọ) có khoảng
10.000 người (2002), Tày Thanh có khoảng 20.000 người (2002)[15], Phu Thay
(hay Phutai, Putai, Puthai, Puthay) với dân số 209.000 người (2002) (ngoài ra tại
Thái Lan có khoảng 470.000 người (2006), tại Lào có 154.000 người (2001) và
tổng số người Phu Thay trên thế giới là 833.000).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại
nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Họ của người Thái.
Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Khoàng, Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà
(Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm
Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La,Lo), Lộc(Lục), Lự, Lường (Lương),
Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng
(Hoàng, Vàng), Quàng, Sầm (Cầm Bá, Phạm Bá), Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo,
Tòng (Toòng), Lang (Vi), Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
1.1.4 Một số nét trong văn hóa tộc người Thái
Ngôn ngữ chữ viết
Người Thái có ngôn ngữ và văn tự riêng. Các nhà dân tộc học hiện nay đã
xếp tộc người này vào Nhóm nói tiếng Thái … ngữ hệ Nam Thái (Austro Thái)
tức Thái Ka-đai. Do có chung một cội nguồn, ngôn ngữ Thái có tỷ lệ thống nhất
cao. Đó là đặc điểm nổi bật mà khi tiếp xúc ai cũng nhận thấy. Đây là tiếng đơn
âm, có thanh điệu. Cấu tạo câu theo thứ tự: chủ ngữ vị ngữ các thành phần khác.
Trừ những câu mệnh lệnh thức, còn ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này.
Tiếng Thái Việt Nam là một phương ngữ được hợp bởi năm vùng thổ ngữ:
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
9

1. Thái Trắng miền cực bắc Tây Bắc.
2. Thái Đen vùng giữa miền Tây Bắc, thường gọi là tiếng Thái chín châu
(Kwam Thai kau chaw muang).
3. Thái Đen ở huyện Yên Châu.
4. Thái Trắng ở huyện Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La) hợp cùng Thái Đen,
thường gọi là Tày Thanh (Man Thanh, Tay Nhại).
5. Nhóm Thái với các tên thường gọi là Tày Mương, Hàng Tổng, Tày Dọ ở mạn
Tây bắc Hòa Bình và miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An.
Văn tự Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit (Ấn Độ). Chữ Thái cổ Việt
Nam thống nhất cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, đó
là: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ
Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái
Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai
Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ
An).
Trong giai đoạn 1954 – 1969, chữ Thái khu tự trị Tây Bắc cũ đã được cải
tiến, thống nhất và mang tên Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008
chữ Thái cải tiến mới được chính thức được đưa vào sử dụng, được gọi là chữ
Thái Việt Nam.
Văn hóa
Hôn nhân:
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở
bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp gia đình bên
gái khó khăn quá.

Cô gái Thái khi lấy chồng phải búi tóc (tẳng cẩu) – tục lệ này thường chỉ
có ở nhóm Thái Đen
Tục lệ ma chay.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
10

Người Thái quan niệm chết là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia. Vì vậy,
đám ma là lễ tiễn người chết về “mường trời”.
Văn hóa dân gian.
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao… là những vốn quý
báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân
tộc Thái là: Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu), Khun Lú Nàng Ủa (Chàng
Lú nàng Ủa)…. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật tục,
dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát,
đặc biệt là khắp tay. Khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn
và múa.
Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu
trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai
đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.
Nhà cửa
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt và Hán là
họ ở nhà sàn. Nhà sàn người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-
Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-
Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà
của cư dân Môn–Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu
đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan
can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác
nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì
khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì
này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các
gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành
làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là
nơi để tiếp khách nam.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
11

1.2. Khái quát chung về múa xòe Thái
1.2.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và phát triển
1.2.1.1 Tên gọi
Xòe là điệu múa dân gian của người Thái từ xa xưa. Nó tồn tại và phát
triển ngày càng phong phú đa dạng. Xòe tiếng Thái gọi là “xẽ” hoặc “xe”, “phọn
xe”. Tiếng phổ thông gọi là xòe, múa xòe.
Xòe mô tả cuộc sống của con người trong lao động, sản xuất, tìm kế mưu
sinh, vui chơi, giải trí, tín ngưỡng, đấu tranh với thiên nhiên, giặc giã, thú dữ…
1.2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển
Theo bài viết của các nhà nghiên cứu Thái học: Đoàn Hữu Nam (Lào Cai
– tr.341), Nông Văn Nhay (Lai Châu – tr.358), Hoàng Ngọc Sửu (Lai Châu –
tr.374, Lò Mai Cương (Sơn La – tr.591) tập “Cộng đồng Thái KADAI Việt
Nam”, Nxb Thế giới, 2015 và nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu Thái học,
nghiên cứu dân gian cho biết: Xòe Thái có 6 điệu cổ: Khăm khén xẽ óm lọm
(Nắm tay xòe vòng); Óm lọm tộp mừ (Đi vòng tròn vỗ tay); Xẽ cụp (Múa nón);
Xẽ nhuôn khăn (Múa khăn); Xẽ phon chá (Múa chá); Xẽ khám khúa (Nhảy sạp).
Nay đã phát triển lên 32 điệu xòe lưu truyền trong công chúng.
Thời Pháp thuộc nhiều viên quan lại người Thái ở Tây Bắc đã tổ chức các
đội xòe chuyên nghiệp hoặc không chuyên phục vụ cho mình. Nổi tiếng như đội
xòe Mường So của Đèo Văn Ân – Tri Châu Phong Thổ (Lào Cai) nay là (Lai
Châu), đội xòe Điện Biên của Đèo Văn Long – tỉnh trưởng Lai Châu…
Hòa bình lập lại xòe Thái được Đảng, Nhà nước quan tâm càng có cơ hội
phát triển rầm rộ ở từng bản, làng người Thái.
Đến năm 2015 riêng tỉnh Sơn La có hơn 3.000 đội xòe ở các bản, phục vụ
cuộc sống sinh hoạt tại quê hương. Xòe rất quan trọng đối với đời sống cộng
đồng người Thái. Từ xa xưa đồng bào Thái đã có câu:
“Không xòe cây lúa không thành bông
Không xòe cây ngô không ra bắp
Không xòe trai gái không thành đôi…”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
12

Vì lý do đó mà việc tìm hiểu các động tác, ý nghĩa của các điệu xòe là cần
thiết.
Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc gắn liền với đời sống
của đồng bào Thái vùng Tây Bắc Việt Nam (đặc biệt là tại các tỉnh: Lai Châu,
Điện Biên, Sơn La, Yên Bái) trong các lễ hội cộng đồng, tang ma, các cuộc liên
hoan văn nghệ, kết bạn, giao lưu… Xòe Thái đã được trao truyền và bảo tồn khá
nguyên vẹn qua hàng trăm năm với nhiều hình thái khác nhau: Xòe dùng trong
sinh hoạt cộng đồng để biểu cảm và kết giao bạn bè; xòe để diễn đạt các ý tưởng
về cội nguồn tâm linh…
Ngoài các điệu múa như: Xòe quạt, xòe khăn, xòe nón, xòe quả nhạc,
người Thái còn rất nhiều điệu xòe mang tên những sự việc, nội dung, đạo cụ
như: Xòe chan khon, xòe kếp phắc, xòe kếp bók… Với những nét đặc trưng độc
đáo, lại được các thế hệ người Thái bảo tồn và phát triển, xòe Thái đã thực sự
trở thành tài sản văn hóa, là sợi dây gắn kết cộng đồng.
Nghệ thuật Xoè Thái đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận
là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
1.2.2. Vai trò của múa xòe trong đời sống văn hóa của tộc người Thái
Nghệ thuật xòe Thái gắn liền với đời sống của đồng bào Thái, trong các lễ
hội cộng đồng, tang ma, các cuộc liên hoan văn nghệ, kết bạn, giao lưu… Xòe
Thái đã được trao truyền và bảo tồn khá nguyên vẹn qua hàng trăm năm với
nhiều hình thái khác nhau: Xòe dùng trong sinh hoạt cộng đồng để biểu cảm và
kết giao bạn bè; xòe để diễn đạt các ý tưởng về cội nguồn tâm linh… Ngoài các
điệu múa như: Xòe quạt, xòe khăn, xòe nón, xòe quả nhạc, người Thái còn rất
nhiều những điệu xòe mang tên những sự việc, nội dung, đạo cụ như: xòe chan
khon, xòe kếp phắc, xòe kếp bók… Với những nét đặc trưng độc đáo, lại được
các thế hệ người Thái bảo tồn và phát triển, xòe Thái đã thực sự trở thành tài sản
văn hóa, là sợi dây gắn kết cộng đồng.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
13

Nói đến sinh hoạt văn hóa của người Thái ở các tỉnh thuộc vùng Tây bắc
nói chung là nói đến hội hè, các trò chơi và vũ nhạc dân gian, trong đó nổi bật
các điệu múa Xòe – một đặc sản văn hóa vốn khởi nguồn chỉ có riêng ở người
Thái. Với người Thái, hội hè trong năm diễn ra rất đa dạng và đậm chất văn hóa
Thái. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
của người Thái, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính
chất cộng động làng bản như: lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa,
lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then…cho tới các lễ hội trong
phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng
“tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới
thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy
là một trong những tết lớn nhất của người Thái. Hàng loạt hội hè kéo dài từ đầu
năm đến hết năm, từ hội đón Xuân, hội săn bắn, hội đánh cá,… đến các hội xên
mường, xên bản, xên hươn, lễ “kin pang”, hội hoa ban,… Và ở bất kỳ loại hội hè
nào, cũng không thể thiếu được những cuộc vui múa Xòe với hàng chục điệu
múa đặc sắc, hấp dẫn.
1.2.3. Múa xòe Thái ở một số địa phương
Xòe Thái là nghệ thuật múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống của cộng đồng người Thái vùng Tây Bắc nước ta, nhất là ở 4 tỉnh
gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Yên Bái. Trong đó, Yên Bái là tỉnh được
lựa chọn đăng cai xây dựng hồ sơ nghệ thuật xòe Thái trình UNESCO công
nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Múa xòe Thái ở Điện Biên
Trên mảnh đất lịch sử Ðiện Biên, người Thái là một trong 19 dân tộc anh
em hiện đang sinh sống đoàn kết, chiếm 38% tổng số dân toàn tỉnh. Với bề dày
truyền thống lâu đời, người Thái đã tạo dựng cho mình những phong tục tập
quán và bản sắc văn hóa riêng. Trong những nét tinh hoa văn hóa Thái được
nhắc tới, không thể thiếu điệu xòe…người Thái đã lớn lên cùng với điệu xòe.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
14

Xòe giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Thái.
Múa xòe không những đẹp về nghệ thuật mà còn mang tính nhân văn tốt đẹp,
thể hiện tinh thần cố kết cộng đồng cao và có sức hút đặc biệt, khiến người vào
xòe dù lớn, dù nhỏ, dù sớm, dù muộn thì vẫn cứ say mê như thuở ban đầu.
Trong ánh lửa bập bùng, trai gái tay nắm tay nhau, chân bước nhịp nhàng theo
điệu nhạc, tiếng trống, tiếng chiêng… Vì thế mà chẳng cuộc vui, ngày hội nào
của người Thái có thể vắng bóng những điệu xòe. Từ những cuộc vui nhỏ của
gia đình, như: Lễ mừng nhà mới, đám cưới hỏi; cho đến những lễ hội lớn của
bản làng, như: Xên bản, Tết xí xíp, Lễ mừng cơm mới, hay Lễ hội Hoa Ban…
“Xòe” theo tiếng Thái nghĩa là múa. Nghệ thuật xòe Thái được hiểu là nghệ
thuật trình diễn các điệu múa dân gian của dân tộc Thái. Từ lâu, nghệ thuật xòe
Thái đã đi vào văn học, thơ ca để lưu giữ và mô tả về nét văn hóa giàu sắc thái
bản địa và vẻ đẹp độc đáo trong loại hình nghệ thuật này. Bởi “Không xòe
không vui, không xòe cây lúa không trổ bông, không xòe cây ngô không ra bắp,
không xòe trai gái không thành đôi” – câu dân ca Thái từ ngàn xưa đã khẳng
định vị thế của điệu xòe trong đời sống của họ.
Ở Điện Biên nghệ thuật xòe thái có 3 động tác gồm: “xé khen vung”
nghĩa là xòe tay cao, “xé khen tàn” nghĩa là xòe tay thấp, “xé hạng eo” – xòe tay
ở ngang thắt lưng. Mỗi động tác lại phù hợp với một lứa tuổi, với từng không
khí cũng như tiết tấu âm nhạc. Xòe tay thấp có thể nói là động tác xòe đơn giản
nhất, bất cứ ai cũng có thể tham gia múa ngay khi có tiếng trống, tiếng chiêng
đầu tiên cất lên. Khi tiếng trống dồn dập hơn, rượu đã ngà ngà say, họ chuyển
sang xòe tay cao hay còn gọi là xòe chọi gà. Người tham gia sẽ nắm tay nhau
đưa lên ngang đầu rồi lại đưa xuống thấp, một chân bước, một chân ký, động tác
mạnh mẽ, dứt khoát, vui vẻ. Khi đã thấm mệt, họ nhường vòng xòe cho người
cao tuổi, các cụ già chỉ múa những động tác nhẹ nhàng đó chính là xòe hai tay
ngang eo. Một trong những yếu tố thu hút người tham gia vòng xòe là sự gần gũi,
dân dã, mộc mạc, dễ múa, dễ hiểu và nhịp điệu uyển chuyển, nhịp nhàng.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
15

Ở Yên Bái có 6 điệu xòe cổ: Khăm khen xẽ óm lọm (Nắm tay xòe vòng).
Xẽ óm lọm tộp mư (Xòe vòng tròn vỗ tay) .Xẽ cụp (múa nón). Điệu “phá
xí” Xẽ nhuôn khăn (Xòe khăn). Xẽ chá chiêng (Múa chá)
Tiểu kết chương 1:
Toàn bộ chương 1 đã khái quát về dân tộc Thái, những nét văn hóa của
tộc người Thái đồng thời cho thấy nghệ thuật dân gian múa xòe Thái. Hiểu được
sự ra đời hình thành và phát triển, vai trò của múa xòe trong đời sống văn hóa
của tộc người Thái.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Vũ Trung Kiên
16

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC MÚA XÒE THÁI TẠI MƯỜNG LÒ, YÊN BÁI
CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH
2.1 Khái quát chung về Mường Lò, Yên Bái
2.1.1Điều kiện tự nhiên
Mường Lò là một trong 4 cánh đồng lớn của Tây Bắc. Cánh đồng này
thuộc phía Tây của tỉnh Yên Bái, rộng khoảng 2300 ha. Qua quá trình lịch sử
và các lần thay đổi dịa dư hành chính, Mường Lò hiện nay nằm trong địa giới
huyện Văn Chấn và thị xã Nghĩa Lộ của tỉnh Yên Bái.
Đây là nơi tập trung phần lớn số lượng người Thái Đen của tỉnh Yên Bái.
Đa số người dân vẫn giữ được nét văn hoá cơ bản của dân tộc mình và bảo tồn
chúng trong những nếp nhà sàn, trong từng thiết chế thôn bản và đời sống cộng
đồng.
Thung lũng Mường Lò được ví như một lòng chảo khổng lồ bao trọn toàn
bộ thị xã Nghĩa Lộ và một vài xã của huyện Văn Chấn. Thị xã nằm ở phía Tây
Nam tỉnh Yên Bái, cách trung tâm tỉnh lỵ 84 km theo quốc lộ 32. Thị xã bao
trùm toàn bộ cánh đồng lớn thứ hai của miền núi Tây Bắc Việt Nam: cánh đồng
Mường Lò.Địa giới hành chính thị xã: phía tây giáp huyện Trạm Tấu, các phía
còn lại giáp huyện Văn Chấn.
Đây là vùng khí hậu ôn hoà, địa hình tương đối bằng phẳng, tài nguyên
nước có trữ lượng lớn.
Mường Lò nằm trong vùng đất cổ thuộc cấu tạo địa chất Indonixit với hệ
thống kiến tạo địa máng mang đậm nét của vùng Tây Bắc Việt Nam. Nằm ở
trung tâm vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn, thị xã có địa hình tương đối bằng
phẳng, theo hướng nghiêng từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc, độ cao trung
bình 250m so với mặt biển, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc.
Vị trí địa lý và địa hình đó đã tạo ra cho Mường Lò các yếu tố khí hậu
mang đặc trưng của tiểu vùng khí hậu Tây Bắc, trong năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *